Chúa Nhật 06.11.2022 – Chúa Nhật 32 Thường Niên - Năm C BÀI ĐỌC I: 2 Mcb 7, 1-2. 9-14 "Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi được sống lại trong cuộc sống đời đời". Bài trích sách Macabê quyển thứ hai. Trong những ngày ấy, có bảy anh em bị bắt làm một với mẹ mình, và bị vua cho đánh bằng roi da và roi gân bò, bắt ép ăn thịt heo mà lề luật đã cấm. Nhưng người anh cả của chúng tâu vua rằng: "Bệ hạ còn hỏi han và muốn dò xét chúng tôi làm chi? Chúng tôi sẵn sàng chịu chết hơn là phạm đến lề luật Thiên Chúa đã truyền cho tổ phụ chúng tôi". Khi sắp thở hơi cuối cùng, người con thứ hai tâu vua rằng: "Hỡi vua độc ác kia, vua chỉ cất mất mạng sống chúng tôi ở đời này, nhưng Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi, là những kẻ đã chết vì lề luật của Người, được sống lại trong cuộc sống đời đời". Sau khi người con thứ hai chết, thì đến người con thứ ba chịu cực hình, tên lý hình bảo cậu le lưỡi, cậu liền le lưỡi, dõng dạc giang hai tay ra và nói một cách tin tưởng rằng: "Tôi được Trời ban cho các phần thân thể này, nhưng giờ đây vì lề luật của Thiên Chúa, tôi khinh chê chúng, bởi tôi trông cậy rằng Người sẽ ban lại cho tôi các phần thân thể ấy". Nhà vua và những kẻ tuỳ tùng của ông lấy làm bỡ ngỡ thấy lòng mạnh bạo của cậu trẻ coi các cực hình như không. Người con thứ ba chết rồi, thì người ta bắt người con thứ tư chịu cùng một cực hình. Lúc sắp chết, cậu nói rằng: "Thà chịu chết do tay người đời mà trông cậy Thiên Chúa sẽ cho sống lại thì hơn: Phần vua, vua sẽ không được sống lại để sống đời đời đâu". Đó là lời Chúa. ĐÁP CA: Tv 16, 1. 5-6. 8b và 15 Đáp: Lạy Chúa, khi thức giấc, con no thỏa nhìn chân dung Chúa (c. 15b). 1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con, xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe tiếng con thốt ra tự cặp môi chân thành. 2) Bước con đi bám chặt đường lối của Ngài, chân con đã không hề xiêu té. Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con, lạy Chúa, xin lắng tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con. 3) Xin che chở con trong bóng cánh của Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan, khi thức giấc, con no thỏa nhìn chân dung Chúa. BÀI ĐỌC II: 2Tx 2,16 - 3,5 "Chúa làm cho lòng anh em bền vững trong mọi việc làm và lời nói tốt lành". Bài trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica. Anh em thân mến, nguyện xin Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng đã thương yêu chúng ta và dùng ân sủng của Người mà ban cho chúng ta sự an ủi đời đời và lòng cậy trông tốt lành, xin Người khuyên bảo và làm cho lòng anh em bền vững trong mọi việc làm và lời nói tốt lành. Anh em thân mến, ngoài ra, xin anh em hãy cầu nguyện cho chúng tôi, để lời Thiên Chúa chóng lan tràn và được vinh hiển như việc đã thể hiện nơi anh em, và để chúng tôi thoát khỏi tay những kẻ lầm lạc và xấu xa: vì không phải hết mọi người đều có lòng tin. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người sẽ làm cho anh em được kiên vững và gìn giữ anh em khỏi sự dữ. Chúng tôi tin tưởng anh em trong Chúa: những điều chúng tôi truyền dạy, anh em hiện đang thi hành và sẽ còn thi hành. Nguyện xin Chúa hướng lòng anh em đến tình yêu Thiên Chúa và lòng kiên nhẫn của Đức Kitô. Đó là lời Chúa. ALLELUIA: Lc 21, 36 All. All. - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người. - All. PHÚC ÂM: Lc 20, 27-38 "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống". Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: Nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ goá đó, để cho anh mình có kẻ nối giòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào; sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy? vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ". Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa". Đó là lời Chúa. 1. Đời này, đời sau--‘Manna’ Suy Niệm Cuộc đời con người có vẻ như chấm dứt bằng cái chết. Một triết gia Đức bảo con người sinh ra để chết. Cái chết là số phận của mỗi người, nhưng nói chung ai cũng muốn sống. Kitô giáo cho rằng con người sinh ra là để sống mãi. Cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi vĩnh hằng. Một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp. Kitô giáo chỉ nhận có một cuộc đời ta đang sống. Chính cuộc đời duy nhất này định đoạt số phận vĩnh cửu của ta. Không có một cơ hội thứ hai để làm lại. Chính vì thế phải sống hết mình cho đời này để đáng hưởng hạnh phúc đời sau. Đời sau mãi mãi là một mầu nhiệm. Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục. Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe. Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau. Cả những tín hữu cũng bị cuốn hút bởi vật chất, và sống như thể chỉ có đời này. Đời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ. Người thuộc phái Xađốc tin rằng sau cái chết linh hồn con người vất vưởng như cái bóng nơi âm phủ. Âm phủ là nơi tối tăm, buồn chán, thiếu sự sống. Người Pharisêu lạc quan hơn, cho rằng đời sau là sự kéo dài của đời này. Người ta sống như trước, nhưng tràn trề hạnh phúc. Đức Giêsu vén mở cho ta phần nào bức màn đời sau. Đời sau khác hẳn đời này. Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi, nhưng sống như các thiên thần, nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa. Đời sau là nơi không còn bóng dáng của thần chết. Người ta thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người được sống lại: cả hồn lẫn xác. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn. Trong tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, chúng ta nghĩ đến cái chết và đời sau. Cái chết dạy tôi biết cách sống. Đời sau kéo tôi ra khỏi những hạnh phúc giả tạo, và những nỗi khổ đau do mê lầm. Tôi đang đi về đời sau để gặp Đấng mà tôi đã tin yêu suốt đời. Tất cả cuộc hành trình đều phải hướng về nguồn cội. Chúng ta đã được dựng nên cho Thiên Chúa, và chúng ta còn khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Ngài. Gợi Ý Chia Sẻ Bạn nghĩ gì về cái chết? Cái chết của một người bạn hay một người thân có khi nào gây âm vang trong lòng bạn không? Có khi nào bạn hình dung thiên đàng trong trí bạn không? Thiên đàng có hấp dẫn bạn không? Phải chăng thiên đàng chỉ có ý nghĩa khi bạn đã nếm được hương vị của tình bạn đối với Thiên Chúa ngay từ đời này? Cầu Nguyện Lạy Chúa Giêsu, khi ra thăm nghĩa địa, khi vào viếng phòng hài cốt, con hiểu rằng mình phải có lòng tin lớn lao mới dám nghĩ một ngày nào đó những thân xác hư hoại này sẽ sống lại. Con người trở về bụi tro, nhưng bụi tro sẽ trở lại làm người, vì con người sinh ra là để bất tử như Thiên Chúa. Lạy Chúa Giêsu, trần gian này quá đẹp khiến con mải mê, quên mình là lữ khách. Thiên đàng lại xa xôi, chẳng có chỗ trong con. Con loay hoay vun quén cho đời sống cá nhân, như thể con sẽ sống mãi trên mặt đất. Xin khơi dậy nơi con niềm khát khao những điều cao cả. Xin đừng để con mãn nguyện với những cái tầm thường. Ước gì Chúa cho con nếm chút vị ngọt của trời cao, khi con quên mình để sống cho anh em trên mặt đất. 2. Sống lại--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt Trong chương trình “Những điều bạn có thể chưa biết” của đài VTV3 có tường thuật một trường hợp lạ lùng: Một phụ nữ bị nhồi máu cơ tim. Chị tắt thở. Chị đã chết. Nhưng nhiều giờ sau, chị tỉnh lại. Các bác sĩ hỏi chị đã thấy gì trong thời gian ấy. Chị trả lời: chị thấy mình như bay bổng lên cao, và từ trên cao chị nhìn xuống thấy các bác sĩ, các y tá đang chăm sóc cho mình, nhìn thấy thân xác mình nằm bất động, nhìn thấy thuốc men, dụng cụ y tế. Chị cũng nhìn thấy một chiếc giày tennis cũ màu xanh da trời, đế giày bị mòn ở mép trong bàn chân, giây giày màu trắng, đầu một sợi dây thòng xuống dưới đáy giày. Nghe lời tả rất chi tiết của chị, vị bác sĩ chuyên điều tra băn khoăn để ý tìm kiếm. Một hôm vị bác sĩ đi qua tòa nhà đối diện nhìn sang bệnh viện, bà giật mình kinh hãi vì thấy ở tầng ba của tòa nhà, trên một gờ xi măng rất cheo leo, có một chiếc giày tennis cũ ai đã đặt ở đó tự hồi nào. Vị bác sĩ quan sát kỹ lưỡng và thấy chiếc giày giống từng chi tiết với chiếc giày mà người chết kể lại: chiếc giày vải cũ màu xanh, đế giày mòn ở mép trong, dây giày màu trắng, đầu một dây thòng xuống nằm ở dưới đáy giày. Đó là một trong 1370 trường hợp trở về từ cõi chết mà các bác sĩ Đức và Mỹ đã điều tra. Theo những người có kinh nghiệm về cái chết này thuật lại thì: Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này. Và sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai muốn kiếm tiền bạc, danh vọng, lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người. Tất nhiên đây chưa phải là bằng chứng chắc chắn về việc người chết sống lại. Nhưng nó rất gần với mặc khải của Lời Chúa hôm nay. Và kinh nghiệm hiếm có của họ rất có thể hữu ích cho ta. Kinh nghiệm của họ nói với ta hai điều: 1) Có cuộc sống khác ở bên kia cái chết. Kinh nghiệm của họ phù hợp với niềm tin dân gian, nhất là của người Việt Nam vẫn tin rằng: thác là phế thách, còn là tinh anh. Vì tin có sự sống ở bên kia cái chết mà chúng ta mới thờ kính tổ tiên, cúng quảy, giỗ chạp. Niềm tin ấy phù hợp với giáo lý của Chúa. Khi Môsê thấy Chúa hiện ra trong bụi gai cháy đỏ. Ông hỏi Chúa là ai. Chúa trả lời: “Ta là Thiên Chúa của Abraham, Isaác, Giacóp”. Vào thời của Môsê, Abraham đã qua đời được 5, 6 trăm năm. Vậy mà Chúa vẫn tự giới thiệu là Thiên Chúa Abraham, tức là Abraham vẫn sống, đang sống bên Chúa. Vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của người sống chứ không phải Thiên Chúa của kẻ chết. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhiều lần nhắc đến cuộc sống sau cái chết như dụ ngôn người giàu có và Lagiarô, trong dụ ngôn về ngày phán xét, dụ ngôn lúa đồng và cỏ dại. Theo thánh Phaolô, cuộc sống đời sau mới là đích điểm mà mọi tạo vật nhắm tới. Trong thư Rôma, Ngài viết: “Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Người. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt phải chịu vậy. Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến nay, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,19-23) Chúng ta rên siết vì cuộc sống hiện tại đầy khổ ải. Chúng ta mong chờ cuộc sống đích thực ở mai sau. Đời sống này là thời kỳ thai nghén. Ta phải chịu đau đớn để sinh vào đời sau. 2) Cuộc sống ở bên kia rất khác với cuộc sống hiện tại. Khi Chúa Giêsu trả lời người Sadducêô, Chúa Giêsu đã mặc khải ba chân lý. Chân lý thứ nhất: Chỉ những ai được tuyển chọn mới được vào Nước Chúa. Sự sống đời sau có đó. Nhưng không phải ai cũng vào được. Chỉ có những người được xét là xứng đáng mới được vào. Trong Phúc Âm, nhiều lần Chúa đã nói tới việc tuyển chọn này. Chúa sẽ loại chiên ra khỏi dê, lúa tốt ra khỏi cỏ dại, cá tốt ra khỏi cá xấu. Tiêu chuẩn để chọn lựa là Tám mối phúc, nhất là giới răn bác ái yêu thương. Chân lý thứ hai: Người ta sẽ giống như thiên thần. Đời sống trên trời sẽ không có gì giống với đời sống dưới đất. Sẽ không còn đói khát nên sẽ không cần ăn uống. Sẽ chẳng có lấy vợ lấy chồng, sẽ chẳng cần sinh con để nối dõi vì người ta không bao giờ chết nữa. Nếu vậy, trên trời ta có còn là ta nữa không hay ta trở thành một người khác, một kiếp khác? Thưa, tuy có khác nhưng ta vẫn là ta. Đứa bé bụ bẫm hôm nay chẳng có gì giống với cái bào thai ngọ nguậy trong bụng mẹ hôm qua. Nhưng cả hai chỉ là một. Bà cụ 90 tuổi hôm nay chẳng còn gì giống với cô thiếu nữ mà bà đã là cách nay 70 năm. Nhưng cả hai vẫn là một. Chú bướm xinh đẹp nhởn nhơ bay lượn trên khóm hoa hôm nay chẳng có gì giống với gã sâu xấu xí lê la trên đất hôm qua. Nhưng cả hai vẫn chỉ là một. Trên trời, ta sống một cuộc sống khác, không ăn uống, không lấy vợ lấy chồng. Nhưng ta vẫn là ta. Có khác biệt nhưng vẫn có liên tục. Chân lý thứ ba: Ta sẽ trở thành con Thiên Chúa. Sống lại rồi, ta như đứa con bấy lâu phiêu bạt xa quê nay được trở lại nhà cha mẹ. Tâm hồn luôn bị dằn vặt vì niềm khao khát vô biên, nay mới được no thỏa: Thiên Chúa chính là hạnh phúc lấp đầy được vực thẳm khao khát vô biên của ta. Thánh Augustinô đã nói: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên lòng con mãi khắc khoải băn khoăn cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Là con Thiên Chúa, hạnh phúc lớn nhất của ta là được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi là cội nguồn hạnh phúc, nên thánh Phaolô đã nói: “Những đau khổ ta chịu bây giờ không thấm gì so với hạnh phúc sau này ta sẽ được. Và mọi tạo vật mong tới ngày được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, để được cùng con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,22). Vì hạnh phúc ấy mà tám mẹ con trong bài đọc thứ nhất đã cam chịu mọi khổ hình. Lời Chúa hôm nay đem lại cho ta bao niềm hy vọng. Chúa cho ta biết, đời ta sẽ không đi trong bất định, lạc vào hư vô, nhưng đời ta có một cùng đích, đó là trở về với Thiên Chúa là cội nguồn của ta. Đời ta sẽ không chìm đắm trong đau khổ, nhưng sẽ vươn lên hạnh phúc, hạnh phúc làm con Thiên Chúa, hạnh phúc chia sẻ sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đời ta như vậy sẽ không đi vào mạt kiếp lụi tàn, nhưng sẽ triển nở trong vinh quang tự do. Đúng như lời thánh Phaolô nói: “Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr 15,43-44) Lạy Chúa, xin cho con biết sống ở đời này theo đúng Lời Chúa dạy, để mai sau con xứng đáng được trở nên con của Chúa. Amen. KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG 1) Cái chết là một thành phần của đời sống. Bạn chuẩn bị và đón nhận cái chết thế nào? 2) Con người sinh ra không phải để chết nhưng để sống. Bạn hiểu câu này thế nào? 3) Đời sau ta sẽ sống với Chúa. Ngay từ bây giờ bạn phải làm gì để chuẩn bị cho cuộc sống với Chúa? 3. Bên kia sự chết--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên Bên kia sự chết là cái gì? Đó là câu hỏi luôn làm lương tâm con người mọi thời đại day dứt. Nhìn chung, các tôn giáo thường có mục đích nghiên cứu và tìm cách đưa ra câu trả lời cho vấn nạn này. Do Thái giáo cũng không phải là ngoại lệ. Người Do Thái suy tư về ý nghĩa cuộc đời và về sự sống sau khi chết. Sách Macabê thuộc loại văn chương ảnh hưởng văn hoá Hy Lạp, được viết vào khoảng thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Tác giả khẳng định: bên kia sự chết là sự sống. Đó là hạnh phúc dành cho những ai trung thành với Chúa. Thiên Chúa là quan toà xét xử con người và sẽ ban thưởng cho những ai sống đạo đức, mến Chúa yêu người. Câu chuyện về người phụ nữ và bảy người con lần lượt bị giết trước mặt người mẹ được viết lại như một tấm gương khích lệ cho các thế hệ mai sau, đồng thời diễn tả niềm tin vào đời sau của Do Thái giáo. Bà là người can đảm, khuyên các con đừng nhụt chí trước đao phủ và kẻ quyền thế. Bởi lẽ quan quyền thế gian chỉ giết được thể xác mà không thể giết được tâm hồn. Chúng ta thấy bà là người mẹ phi thường. Nếu bà có chí khí kiên cường như vậy, là vì bà tin vào sự sống đời sau và tin vào quyền năng của Thiên Chúa tối cao. Kitô giáo cũng cùng chung niềm tin với người Do Thái về hạnh phúc đời sau, tuy có những khác biệt. Cũng lại là con số “bảy”, nhưng lần này là bảy người cùng lấy một người phụ nữ làm vợ. Câu hỏi do phái Sađốc đặt ra, nhằm chế giễu và gài bẫy Chúa Giêsu, vì phái này không tin vào sự sống lại. Quả vậy, nếu có sự sống đời sau thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai? Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi, nhưng Người khẳng định có sự sống đời sau. Khi đó, con người sẽ trở nên thần thiêng, giống như các thiên thần. Họ không còn cưới vợ lấy chồng, vì là con cái của sự sống lại. Chúng ta tưởng tượng, nếu đời sau con người lại lấy vợ lấy chồng, thì đương nhiên lại có sinh sản và chắc chắc sẽ lại có …ly dị. Như vậy, đâu còn là hạnh phúc thiên đàng, nơi được trình bày như hạnh phúc hoàn hảo vì được chiêm ngắm Chúa và được sống trong tình yêu trọn vẹn. Cũng liên quan đến sự chết, có biết bao vấn nạn khác thường được đặt ra: Người ta chết chôn trong mồ, trở thành cát bụi, làm sao sống lại? Những người mất một phần chi thể, khi sống lại sẽ ra sao? Trước khi chết, người ta già nua, bệnh tật xấu xí, khi sống lại sẽ ở tình trạng nào? Không ai có thể đưa ra một câu trả lời chính xác, vì họ không phải là Thiên Chúa và vì họ chưa bao giờ từng trải những kinh nghiệm và những trường hợp nêu trên. Những trả lời, nếu có, chỉ là suy luận của lý trí con người. Tuy vậy, đối với Chúa, “không có gì mà Ngài không làm được”. Từ ban đầu của lịch sử, Thiên Chúa đã lấy bùn đất nắn thành hình con người và thở sinh khí làm cho con người có sức sống – theo cách trình bày của tác giả sách Sáng thế. Cũng vậy, vào ngày tận thế, Thiên Chúa sẽ làm cho bụi đất trở thành con người. Nói đúng hơn là Thiên Chúa tái tạo con người từ bụi đất, là thành phần còn lại sau khi được an táng trong lòng đất. Vì vậy, khi suy tư về vận mệnh tương lai của thân phận con người, chúng ta tin vào quyền năng và tình yêu thương của Thiên Chúa, với niềm xác tín Ngài luôn muốn những điều tốt cho chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta vững lòng trông cậy nơi Ngài, như Thánh Phaolô mời gọi cộng đoàn tín hữu Thêxalonica (Bài đọc II). Trong tháng 11 dương lịch, Giáo Hội mời gọi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người đã qua đời. Việc cầu nguyện cho người đã qua đời cũng là khẳng định họ vẫn tồn tại sau khi chết. Các linh hồn nơi luyện ngục đang chờ đợi được thanh tẩy để xứng đáng ra trình diện trước nhan Chúa. Việc cầu nguyện và những việc lành phúc đức của chúng ta sẽ rút ngắn thời gian tinh luyện của các linh hồn nơi luyện ngục, cho họ sớm được hưởng Thánh Nhan Chúa trên quê hằng sống. Việc cầu nguyện cho người đã qua đời cũng mời gọi chúng ta suy tư về sự chết và về sự sống đời sau. Nghĩ đến sự chết sẽ giúp chúng ta sống tốt hơn, đồng thời hối thúc chúng ta làm những việc lành, vì những việc tốt chúng ta làm đều được Chúa ghi nhận và thưởng công. Hạnh phúc thiên đàng không phải là ngẫu nhiên và cho hết mọi người, nhưng là kết quả cuộc một cuộc đời sống tốt lành, mến Chúa yêu người và nhiệt thành làm việc thiện. Vào lúc tạm biệt trần thế, chúng ta đâu có mang theo được của cải bạc tiền, nhưng là ân nghĩa và phúc đức chúng ta đã thực hiện khi sống trên trần gian. Một tác giả đã viết rất sâu sắc: “Khi ta sinh ra, ta khóc, mọi người cười. Hãy sống sao để khi rời cõi thế, mọi người khóc mà ta cưỡi mãn nguyện”. Cái “cười” của người ra đi, đó chính là sự thanh thản, không ân hận, nhưng hài lòng vì mình đã sống đẹp trên trần gian, lúc ra đi để lại thương nhớ và những kỷ niệm đẹp nơi mọi người, để rồi hình ảnh đẹp của họ sẽ lắng đọng nơi người thân mãi mãi. 4. Sự sống đời sau - ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm Hầu hết nhân loại đều tin con người qua khỏi đời này, sẽ có một cuộc sống khác: một cuộc sống đời sau, một cuộc sống lại, không phải chết là hết. Nhưng có một số người không tin có sự sống khác sau khi chết, nên họ đã đặt ra những vấn nạn vô lý. Thời Đức Giêsu, phái Sa đốc (Sadduceéns) không tin có sự sống lại. Họ đã tưởng tượng ra câu chuyện khá lố bịch để hỏi Đức Giêsu: “Nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả cưới vợ rồi chết không con. Theo luật Môsê, người em phải lấy chị góa đó để có con nối dòng, và cả bảy anh em đều chết không con. Khi sống lại, chị góa đó là vợ ai?” Nếu nhận có sự sống lại theo họ nghĩ thì thật căng, thật khó xử và gây rất nhiều rắc rối. Vậy phải chấp nhận không có sự sống lại là khỏe, là giải quyết êm đẹp mọi vấn đề rắc rối! Họ khoái trí với lý luận đó và nhiều lý luận quá vật chất như thế. Lý luận của những người dựa vào giả thuyết tiến hóa của Charler Robert Darwin (1809-1882) cũng thế. Giả thuyết này cho rằng: mọi sinh vật đều có chung một tổ tông. Những hình thức cao hơn của đời sống phát sinh từ những biến dạng của những hình thức đơn giản hơn (Funk &Wagnalls: Encyclopedia). Đó mới chỉ là giả thuyết (hypothesis) chưa được xác minh theo phương pháp khoa học. Nếu mọi sinh vật đều bởi một Ông tổ vật chất nẩy sinh đột biến, thì chết đều trở về vật chất, không còn sự sống nữa. Những người không tin có sống lại đó, họ vẫn xây những ngôi mộ thật đẹp, những lăng tẩm thật vững chắc. Họ kỷ niệm ngày chết tổ tiên, anh hùng long trọng. Chẳng lẽ họ lại tô điểm cho cái xác đã rữa thối? Tôn vinh những ngôi mộ bằng đất đá? Như vậy, miệng thì chối không có sự sống lại. Nhưng việc họ làm chứng tỏ lòng họ tiềm ẩn một niềm tin sống lại. Nếu chỉ vì ghi công và noi gương các bậc anh hùng, vĩ nhân thì cách tốt nhất là ghi lại trong sử xanh lưu danh muôn thuở. Mồ mả quá tốn phí, lại chóng đổ nát. Những người nhân danh khoa học để chối không có sống lại, không có Thiên Chúa, mà xây mồ mả như thế là phản khoa học. May mắn thay số người như vậy quá ít, so với hầu hết nhân loại tin có sống lại, tin có Thiên Chúa Ông Eymieu đã công bố bảng thống kê 432 nhà bác học thế kỷ 19 thì có 367 vị tin có Thiên Chúa và sự sống lại. Bác sĩ Dennaert người Đức cho biết trong số 300 nhà bác học lỗi lạc nhất ở 4 thế kỷ vừa qua có 242 vị tin, 38 vị không rõ lập trường, 20 vị không tin và dửng dưng” (VQ. Đi Về Đâu - tr.39; René Courtois: Des Savants nous parlent de Dieu. p. 11). Những tôn giáo vĩ đại như Hồi Giáo, Ấn Giáo, Phật Giáo đều tin có đời sau. Vạn thế sư biểu như Khổng Tử tin rằng chết là an nghỉ ngàn thu. Khi Tử Cống xin nghỉ học về thờ phụng cha mẹ cho khỏi mệt. Khổng Tử bảo việc nào trên đời này làm trọn bổn phận đều rất khó nhọc, nghỉ sao được! Tử Cống thất vọng kêu lên: Vậy con không có lúc nào được nghỉ ư? Khổng Tử đáp: Có chứ, lúc nào con thấy cái huyệt đào nhẵn nhụi, cái mộ được đắp chắn, người đưa con bỏ về. Bấy giờ là lúc con được nghỉ. Cống reo lên: Vậy chết hay thật, quân tử thì được nghỉ ngơi, tiểu nhân hết làm bậy” (Giảm chi. Đại vương THTH. Tr. 54). Khổng Tử còn dạy hiếu đối với cha mẹ: “Sống thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế” (Luận ngữ II, 5). Người Việt Nam tin chết là thể phách, còn là tinh anh, sinh ký tử qui. Sinh là ký gởi, chết là về cội nguồn tinh anh. Hầu hết nhân loại tin có sự sống đời sau, nhưng chưa biết rõ thế nào. Bậc chí thành như Khổng Tử đã thú nhận rằng: “Vị tri sinh, yên tri tử”: Chưa biết rõ cái lẽ sống, thì cái lẽ chết cứ để yên đó. Chỉ mình Đức Giêsu là biết rõ cái lẽ chết đời sau, Người nói: Thứ nhất: Đời này cưới lấy chồng vợ, đời sau thì không. Những ai được xét xứng đáng thì được hạnh phúc đời sau. Xét như một cuộc thi tuyển, chỉ tuyển những người sống xứng đáng ở đời này mới được thưởng hạnh phúc đời sau. Thứ hai: Họ sống lại được giống như thiên thần. Đời sống Thiên Thần hoàn vượt trên tầm hiểu biết của trí thức khoa học và vượt mọi kinh nghiệm của loài người. Thiên Thần là bậc thiêng liêng tinh thần, không có hình hài thể xác cho nên không bị chết nữa, và các ngài đang được hưởng hạnh phúc vinh quang Thiên Chúa. Chúng ta khi được sống lại cũng được sống như các ngài. Chúng ta có thể ví đời sau khác với đời này, như đứa trẻ khác với khi nó sống trong bào thai, như con bướm khác với lúc nó là con sâu, như cây xanh tốt khác với hạt mọc nên nó. Tuy vậy, nó có sự tiếp tục từ bào thai sang đứa trẻ, từ con sâu thành con bướm, từ hạt giống mọc nên cây. Thứ ba: họ sống lại được làm con Thiên Chúa, sống thân mật với Thiên Chúa là Cha mà họ suốt đời kính mến hết lòng. Không còn vinh phúc nào hơn nữa, nên thánh Phaolô hằng “cầu xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã lấy lòng nhân hậu mà ban cho chúng ta niềm phấn khởi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp” (Bài đọc II) Sau hết: Họ sống lại vì Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống chứ không phải của kẻ chết. Thiên Chúa đã dựng nên họ, đã cứu chuộc họ, đã chọn họ, yêu thương họ như các tổ phụ Abraham, Isaác, Giacóp để họ sống hưởng hạnh phúc trong gia đình đầy yêu thương của Thiên Chúa, chứ không phải để họ chết. Lời tung hô Alêluia đã reo vang lên: “Vạn tuế Đức Kitô, Đấng đầu tiên từ cõi chết sống lại. Người vinh hiển quyền năng, Vạn vạn tuế!”. Người là đầu thân thể đã sống lại để cho chi thể được sống lại với Người. Lạy Chúa, là Cha chúng con, đã dựng nên và cứu độ chúng con. Xin cho chúng con luôn sống theo luật yêu thương của Chúa dù gặp gian nan khốn cực đến đâu, chúng con quyết noi gương bảy anh em Macabê để được sống lại vinh phúc đời đời. 5. Con người sẽ sống lại--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ. Sống lại, là điều rất khó dung hợp được với khoa học, và rất khó giải thích cho con người ngày nay. Tuy vậy, nhiều người tin có sự sống mai hậu. Niềm tin có sự sống mai hậu Bài đọc trong sách Maccabêô cho thấy niềm tin sống lại nơi bảy anh em và người mẹ tuyệt vời. Con người có thể cướp mạng sống “chóng qua” của nhau, nhưng không thể cướp được sự sống đời đời. Có người mẹ nào mà không thương con? Có người mẹ nào mà không muốn con mình sống? Người mẹ của bảy người con này thật tuyệt vời. Bà thương con và nuôi dạy con rất tốt. Bằng chứng là những người con vâng lời và kính trọng bà. Bà không chỉ muốn con mình sống, nhưng bà còn muốn con mình sống hạnh phúc vĩnh cửu. Bà biết ông vua độc ác có thể cướp mạng sống quý giá của những người con yêu của bà, nhưng Thiên Chúa sẽ trả lại cho chúng đời sống vĩnh cửu. Và bà đã can đảm khuyên con mình trung thành với lề luật Chúa, để được sống đời đời. Niềm tin sống lại nơi bảy người con, và đặc biệt nơi người mẹ, thật tuyệt vời. Qua thái độ sống của người mẹ và bảy người con này, người ta nhận ra sự sống mai hậu tồn tại. Nếu không có sự sống lại, làm sao những người công chính dám chết? Làm sao các vị tử đạo dám chấp nhận cái chết? Con người sống lại vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của người sống Những người thuộc phái Sađốc là những người quý phái và học thức thời Đức Yêsu. Họ không tin con người sẽ sống lại sau khi chết. Không chỉ thế, họ còn tìm được lý chứng để cho thấy tin kẻ chết sống lại là phi lý, và không hợp với luật Môsê nữa. Trường hợp họ hỏi Đức Yêsu hôm nay cho thấy điều đó: nếu tin kẻ chết sống lại, thì người đàn bà đã ăn ở với bảy anh em trong một nhà đó, sẽ là vợ của người nào?! Điểm tới của câu hỏi không là người đàn bà đó là vợ của ai trong bảy người, nhưng là “tin kẻ chết sống lại là phi lý”. Đức Yêsu cho họ thấy họ không hiểu sự sống đời sau. Đời sau không dựng vợ gả chồng, nên không có sự “phi lý” như họ tưởng. Và như vậy, việc kẻ chết sống lại, không phải là chuyện phi lý. Hơn nữa, lý luận của Đức Yêsu cũng rõ ràng. “Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, chứ không phải là Thiên Chúa của kẻ chết”. Nếu người chết không sống lại, Thiên Chúa có hay không có, Ngài như thế nào con người đâu cần bận tâm vì đâu có ích lợi gì cho con người! Nếu con người tin có Thiên Chúa, và tin rằng Ngài yêu thương con người, hàm chứa con người sẽ sống lại. Con người sống lại, vì Đức Yêsu đã sống lại Có một số người thời thánh Phaolô cũng không tin có sự sống lại. Họ cũng lý luận: làm sao người chết sống lại được, với thân xác nào người chết sống lại? Và thánh Phaolô đã trả lời: “chỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cor.15, 44). Lý luận chính yếu của thánh Phaolô về việc người chết sống lại: “Đức Yêsu đã sống lại”. Với Phaolô, Đức Yêsu đã sống lại nên kẻ chết sẽ sống lại (1Cor.15, 12). Nếu người chết không sống lại, thì Đức Yêsu sống lại để làm gì? Nếu người chết không sống lại, thì ki-tô hữu là kẻ ngu dại nhất, vì không biết tận hưởng những lạc thú đời này. Con người sống lại, là hậu quả của tình yêu và công bằng. Vì yêu, mà Thiên Chúa cho con người sống lại để chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Vì công bằng, mà những người sống công chính được bù đắp những gì họ đã hy sinh trong cuộc đời tại thế này. Thực sự, những người công chính đã được bình an và hạnh phúc ngay trong đời này, thậm chí cả những lúc như thể họ tuyệt vọng. Tuy vậy, hạnh phúc vĩnh cửu còn vượt xa điều họ đã nhận được tại cuộc đời chóng qua này. Câu hỏi gợi ý chia sẻ: 1. Đâu là điều lợi và điều hại khi tin con người sẽ sống lại? 2. Bạn có muốn: con người sẽ sống lại không? Tại sao? 3. Theo bạn, làm sao để giúp người khác tin vào sự sống đời đời? 6. Cuộc sống đời sau--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái Chủ Ðề: Cuộc sống đời sau I. Dẫn vào Thánh lễ Anh chị em thân mến Lời Chúa hôm nay bảo đảm có một cuộc sống đời sau. Đây quả là một niềm hy vọng vui mừng, vì cuộc sống nơi dương thế của chúng ta sẽ không kết thúc bằng ngõ cụt, nhưng đó là một chặng của cuộc hành trình về cõi trường sinh. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta sống thế nào để sẽ mãi hạnh phúc trong cuộc sống đời sau. II. Gợi ý sám hối Chúng ta quá lo cho cuộc sống đời này mà ít lo cho cuộc sống đời sau. Nhiều khi chúng ta sống buông thả như không có đời sau. Cách sống của chúng ta chưa thuyết phục được người khác rằng chúng ta thực sự tin có đời sau. III. Lời Chúa 1. Bài đọc I (2 Mcb 7, 1-2. 9-14) Chuyện kẻ về thời vua Antiochus bắt đạo. Một bà mẹ và 7 người con thà chịu chết chứ không chịu bỏ đạo Chúa. Trích đoạn này chỉ ghi cái chết của 4 người con đầu. Lời họ nói với vua đều khẳng định Chúa sẽ cho họ hưởng sự sống đời đời. 2. Đáp ca (Tv 16) Đây là lời cầu nguyện của những vị tử đạo: "Con đã sống công minh chính trực, con sẽ được trông thấy mặt Ngài. Khi thức giấc, con sẽ được thỏa tình chiêm ngưỡng Thánh nhan" 3. Tin Mừng (Lc 20, 27-38) Mặc dù nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về cuộc sống ấy: ở đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng sinh con và hưởng thụ tất cả những lạc thú như đời này. Trong câu trả lời, Chúa Giêsu vừa xác nhận có cuộc sống đời sau, vừa cho biết ý nghĩa của cuộc sống ấy: Đời sau người ta sẽ bất tử, do đó không cần lưu truyền nói giống, cho nên cũng không cần cưới vợ lấy chồng. Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Chúa, như các thiên thần vậy. 4. Bài đọc II (2 Tx 2, 16--3, 5) (Chủ đề phụ) Như đã trình bày (Chúa nhựt 31), nhiều tín hữu ở giáo đoàn Thêxalônica nghĩ rằng sắp tận thế nên đâm ra lười biếng không làm việc và sống buông thả. Trong trích đoạn của Chúa nhựt trước, thánh Phaolô đã vạch ra sai lầm của suy nghĩ đó. Trong trích đoạn hôm nay, Thánh Phaolô nói thêm: dù không biết chắc khi nào tận thế và Chúa lại đến, nhưng các tín hữu phải sống trong niềm hy vọng và mong chờ Chúa đến. Chính niềm hy vọng và sự mong chờ này sẽ là động lực giúp họ sống tốt. IV. Gợi ý giảng * 1. Bàn về việc sống lại Ông Cao Bá Quát là một nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt nam. Ông có mấy câu thơ như sau: "Ba vạn sáu ngàn ngày lá mấy, Cảnh phù du trông thấy những nực cười. Thôi công đâu chuốc lấy sự đời Tiêu khiển một vài chung lếu láo." Ông Cao Bá Quát nghĩ rằng đời người vắn vỏi lắm, dài nhất là 3 vạn 6 ngàn ngày, nghĩa là 100 năm, sau đó thì ai cũng chết, mà chết là hết tất cả, cho nên còn sống bao lâu thì hãy lo ăn chơi, hưởng thụ, uống rượu "tiêu khiển một vài chung lếu láo". Những người không tin có đời sau, không tin có sống lại, thì cũng dễ rơi vào quan niệm sống buông trôi hưởng thụ như 4 câu thơ trên. Thời Chúa Giêsu, phái Sađốc cũng không tin có sống lại. Họ dựa vào một khoản luật của Môsê để đặt ra một câu chuyện lố bịch chế diễu Chúa Giêsu. Khoản luật đó là: Nếu một người đàn ông có vợ nhưng chưa có con mà bị chết, thì một trong các anh em trai của người chết ấy phải cưới lấy người vợ góa. Khi sinh ra đứa con đầu tiên thì phải coi đứa con đó là con của người đàn ông quá cố. Mục đích của luật này là để cho người quá cố không bị tuyệt tự, nhưng vẫn có con lưu truyền nòi giống cho mình. Phái Sađốc đã căn cứ vào khoản luật này và đặt ra một thí dụ: gia đình kia có 7 anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con, người thứ hai lấy người vợ góa đó nhưng cũng chết không con, tới người thứ 3, thứ tư, năm, sáu bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không có con. Vậy khi sống lại thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai? Ta thấy mục đích của phái Sađốc là mỉa mai cho rằng sống lại là việc phi lý, vì nếu có sống lại thì chẳng lẽ người đàn bà ấy có thể là vợ chung của tập thể 7 anh em kia sao? Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời rất khôn khéo. Ngài vừa chứng minh rằng sống lại là một điều hợp lý, vừa giải thích cho người ta hiểu tình trạng của kẻ sống lại như thế nào. Trước hết, để chứng minh rằng sống lại là điều hợp lý, Chúa Giêsu lập luận rằng Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, chỉ có kẻ sống mới hưởng được tình thương của Chúa. Nếu chết mà là hết thì đâu còn hưởng được tình thương của Chúa. Do đó Chúa phải cho kẻ chết sống lại để họ có thể hưởng được tình thương Chúa mãi mãi. Lập luận này đối với chúng ta ngày nay thì hơi lạ tai, khó hiểu. Nhưng đối với người Do thái thời đó, vốn rất quen với quan niệm "Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống", thì họ đều dễ hiểu. Tóm lại là Chúa Giêsu khẳng định rằng kẻ chết sẽ được sống lại. Rồi Chúa Giêsu còn giải thích tình trạng của kẻ sống lại như thế nào: đó là một cuộc sống khác hẳn cuộc sống bây giờ, không còn cưới vợ lấy chồng nữa; cuộc sống ấy rất thánh thiện như "các thiên thần" cuộc sống ấy rất thân mật với Chúa, kẻ lành sống lại được coi là "Con của Chúa". Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một cuộc tranh luận về giáo lý giữa phái Sađốc và Chúa Giêsu. Phái Sađốc mỉa mai việc kẻ chết sống lại, còn Chúa Giêsu thì khẳng định tín điều ấy. Chúng ta chẳng cần đi sâu vào chi tiết cuộc tranh luận đó làm chi. Điều cần chúng ta quan tâm hơn là hãy suy nghĩ về niềm tin của mình. Vấn đề thực tế đối với chúng ta là chúng ta tin có sự sống lại Vậy nếu chúng ta tin có sống lại thì bây giờ chúng ta phải sống như thế nào? Hồi nảy chúng ta đã nghe lại mấy câu thơ của ông Cao bá Quát với chủ trương còn sống bao lâu thì hãy ăn chơi, hưởng thụ cho tối đa, kẻo chết rồi sẽ không còn được hưởng thụ nữa. Đây là quan niệm của những người không tin có sống lại. Vì quan niệm như vậy, cho nên nếu họ có sống buông thả, chạy theo hưởng thụ thì cũng là hợp lý thôi. Thế nhưng có những người có đạo mà cũng sống theo kiểu đó, quan tâm duy nhất của họ là chỉ lo ăn, lo mặc, lo xài, lo mua sắm, lo chơi, lo thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Sống kiểu đó là mâu thuẫn với niềm tin của mình. Hạng người thứ hai không quá duy vật như số người vừa kể trên. Tuy họ mãi mê kiếm tiền và rất coi trọng cuộc sống vật chất, nhưng họ vẫn không quên đời sau. Họ ít đến nhà thờ, ít đọc kinh cầu nguyện, nhưng họ chịu khó bỏ tiền ra để xin lễ, chịu khó bỏ tiền ra để góp phần xây sửa nhà thờ, đóng góp tiền bạc khi có những cuộc quyên góp... Bỏ tiền ra như vậy là họ yên tâm, cho rằng mình đã có bỏ vốn để đầu tư cho đời sau. Có phải đó là niềm tin vào sự sống lại không? Có lẽ cũng là niềm tin, nhưng là tin lệch lạc: hạnh phúc đời sau không phải mua được bằng tiền bạc đâu. Đời này thì có tiền mua tiên cũng được, nhưng đời sau không phải vậy! Thiết nghĩ nếu chúng ta tin rằng có sống lại, thì chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống của mình. Thể hiện thế nào? Trước hết, ta phải biết đánh giá những biến cố xảy ra ở đời này bằng cặp mắt đức tin: người không tin thì rất sợ chết, rất sợ bệnh tật, rất sợ mất mát, rất sợ đau khổ. Họ sợ như vậy là phải, bởi vì họ không biết có đời sau. Chỉ có mỗi đời này mà đời này lại bệnh tật, mất mát, khổ sở và chết nữa thì không sợ sao được. Nhưng người có đạo như chúng ta đã tin có đời sau, đã tin rằng đời này chỉ là tạm, đời sau mới vĩnh viễn, mà cũng sợ như thế tức là mâu thuẫn với niềm tin của mình. Điểm thứ hai để thể hiện niềm tin của mình vào sự sống lại là chúng ta phải biết phân chia thời giờ của ta để quan tâm chăm lo mọi mặt: Dành một phần thời giờ để lo làm ăn sinh sống. Dành thêm một phần thời giờ khác để gần gũi với con cái, giáo dục gia đình. Thêm một phần thời giờ nữa để xây dựng những tương quan xã hội. Và chắc chắn cũng phải dành một phần thời giờ để lo việc đạo, đời sau. Chúng ta phải nhớ nguyên tắc "Gieo gì thì gặt nấy": nếu chúng ta dành hết thời giờ ở đời này để chỉ lo tiền bạc vật chất thì chúng ta chỉ gặt được tiền bạc vật chất mà thôi; nếu ta không dành thời giờ để xây dựng hạnh phúc gia đình thì sẽ không có gì lạ nếu gia đình ta chẳng hạnh phúc; nếu ta không đầu tư thờ giờ và công khó để lo cho đời sau thì mong gì đời sau ta sẽ được hạnh phúc. Dưới đây là một câu ngạn ngữ phương Tây cho chúng ta suy nghĩ: Nếu bạn muốn hạnh phúc một ngày, hãy mua một cái áo mới Nếu bạn muốn hạnh phúc một tuần, hãy làm thịt một con heo. Nếu bạn muốn hạnh phúc một năm, hãy cưới vợ lấy chồng. Nếu bạn muốn hạnh phúc một đời, hãy làm người sống tử tế Nếu bạn muốn hạnh phúc một muôn đời, hãy làm người có đạo tốt. * 2. Sống lại Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe đề cập đến vấn đề kẻ chết sống lại. Mỗi khi chúng ta đọc kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Chúng ta tuyên xưng như thế và chúng ta tin điều đó dễ dàng. Chứ thực ra vấn đề này không dễ dàng cả vào thời Chúa Giêsu lẫn ở thời nay. Thời nay có nhiều người chỉ nghĩ đến vật chất: ngay cả Thiên Chúa, linh hồn và đời sau họ còn không tin, huống chi là tin chuyện xác loài người chết rồi mà một ngày kia còn sống lại được. Thời Chúa Giêsu 2000 năm trước đây cũng thế. Vấn đề kẻ chết sống lại là một tín điều không phải do trí óc con người lý luận ra, mà do Thiên Chúa mạc khải dần dần qua dòng thời gian. Ở thời xa xưa, khi mạc khải Chúa chưa tỏ hiện trọn vẹn, người Do thái cũng tin như những dân ngoại: Họ tin rằng sau khi chết, phần linh hồn của con người còn tồn tại, tồn tại trong cõi âm phủ tối tăm không ánh sáng vì thiếu hết mọi hạnh phúc, linh hồn kẻ lành người dữ sau khi chết đều phải rời vào cõi âm phủ buồn thảm đó. Còn phần xác thì tiêu tan ra, không hy vọng gì sống lại được. Mãi đến thời anh em nhà Macabê khởi đầu dành độc lập cho đất nước Do thái, nghĩa là khoảng 100 năm trước Chúa Giáng sinh, mạc khải mới cho biết xác loài người có ngày sẽ sống lại. Chính vì tin tưởng như thế nên vào thời này, như đoạn sách thánh lúc nãy thuật lại, có 7 anh em nhà bị bắt và được dụ dỗ bỏ đạo, 7 anh em sẵn sàng thà chết phần xác mà không bỏ đạo còn hơn là chết luôn phần hồn vì tội chối Chúa, vì họ tin chắc rằng xác thể họ sẽ không chết mãi, nhưng Thiên Chúa sẽ cho sống lại vinh hiển. Tuy đã có mạc khải như thế, nhưng cho tới thời Chúa Giêsu, vẫn có người còn chưa tin theo. Đại biểu của những kẻ không tin này là phái Sađóc. Vì không tin, nên khi nghe Chúa Giêsu giảng về kẻ chết sống lại, họ mỉa mai chế giễu và đến với Chúa đặt ra một câu hỏi lố bịch cốt ý chọc ghẹo Chúa. Họ lý luận: nếu như ông nói người ta sẽ sống lại, thì giả sử một nhà kia có 7 con trai, anh cả lấy vợ rồi chết. Và căn cứ theo luật Môsê thì em kế phải cưới người vợ góa để có con nối dõi tông đường, nhưng em kế cũng chết mà không con, rồi người thứ ba lấy, rồi cũng chết, cứ thế cho đến hết 7 anh em. Vậy khi sống lại thì người đàn bà kia là vợ của ai? Khi hỏi như thế, nhóm Sađóc dĩ nhiên không cần Chúa trả lời rằng người đàn bà đó là vợ của ai cả, nhưng muốn Chúa bị bắt bí và phải thú nhận rằng giáo lý của Ngài về việc kẻ chết sống lại lại là bố bịch và do đó Ngài phải phủ nhận giáo lý đó để đi theo lập trường của họ. Nhưng trong câu trả lời của Chúa Giêsu, Ngài chẳng những giải thích rõ hơn về việc kẻ chết sống lại, mà còn trả lời thẳng về việc ai là chồng của người đàn kia. Đại khái Ngài bảo: vấn đề kẻ chết sống lại là một điều chắc chắc có căn cứ trên sách thánh, bởi Thiên Chúa đã phán Ngài là Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, mà Thiên Chúa không là Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống, cho nên các tổ phụ đó tuy đã lìa đời nhưng vẫn là kẻ sống và xác thể họ sẽ sống lại. Ngài còn cho phái Sađóc biết thêm rằng: sau khi sống lại người ta không còn sống theo những điều kiện của đời này, nghĩa là không còn cưới vợ lấy chồng nữa. Tất cả đều hướng về Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc thật và độc nhất, và là Đấng thoả mãn mọi nhu cầu của con người. Chúng ta là con cái Chúa đang sống giữa con cái thế gian như một nhóm thiểu số, như hạt muối trong lòng đất, như nhúm men trong thúng bột. Nhiều người sống quanh ta không tin ở đời sau, và đa số không tin việc sống lại. Do chính cuộc sống chúng ta, chúng ta phải làm sao chứng minh cho mọi người về niềm tin của chúng ta: - Tin rằng xác loài người ngày sau sống lại, chúng ta phải làm sao cho mọi người thấy rằng ngoài những giá trị thuần túy vật chất như tiền bạc, cơm áo, tài sản... còn có những giá trị tinh thần quý báu hơn như thà mất mát một vài tiện ích vật chất chứ không phạm tội để bảo tồn những giá trị thiêng liêng của linh hồn; như không khư khư nhắm mắt chỉ lo cho đời sống vật chất đời này mà quên mất đời sau: như dám quảng đại hy sinh chia xẻ những của cải mình đang có cho những người anh chị em túng thiếu hơn mình... Một niềm tin chắc chắn và được biểu lộ qua một cuộc sống cụ thể như thế mới làm cho những kẻ không tin không chế nhạo chúng ta và còn có sức lôi kéo họ đi theo niềm tin của chúng ta về việc kẻ chết sống lại. * 3. Hợp hoan bên Chúa Trong kho tàng chuyện cổ Tây Phương có câu chuyện Công Chúa Ngủ Trong Rừng, như sau: Ngày xưa, ở vương quốc hạnh phúc, nhà vua sinh dược một công chúa xinh đẹp tuyệt vời. Lễ rửa tội được tổ chức linh đình, có mặt các bà tiên, mỗi bà tặng công chúa một món quà là một lời chúc tốt đẹp. Dù không được mời, mụ phù thuỷ ghen tức cũng bay đến, lẩm bẩm câu chúc dữ: "Một ngày kia, cái suốt chỉ sẽ đâm vào tay công chúa và con bé sẽ phải chết!" Nói xong, mụ bay vù qua cửa sổ. Mọi người buồn bã mất vui. May thay, vẫn còn một bà tiên tốt bụng đến trễ. Bà nói: "Ta sẽ làm nhẹ lời nguyền rủa ấy: cô bé sẽ không chết, chỉ ngủ một giấc rất dài cho tới khi một hoàng tử tốt lành, sẽ đến nắm tay kéo dậy và cô sẽ được hạnh phúc mãi mãi". Để đề phòng, nhà vua cấm tất cả thần dân không được dùng suốt chỉ. Nhưng một ngày kia, công chúa lên tháp canh trong lâu dài và thấy một bà lão đang khâu vá. Cô xin bà cho khâu thử. Thế là cái suốt chỉ đâm vào tay cô, cô lăn ra chết! Người ta đặt xác cô giữa lâu đài, nhưng các bà tiên tốt bụng đã khiến mọi người trong lâu đài cùng bất tỉnh cả. Một rừng cây mọc lên che phủ lâu đài. Hoa thơm cỏ lạ bốn mùa đua nở. Thời gian trôi đi đã ngàn năm, cho đến khi một hoàng tử lịch lãm đi săn ngang qua đó, khám phá ra toà lâu đài. Chàng bước vào ngỡ ngàng trước nàng công chúa xinh đẹp. Hoàng tử đã quì gối cầm tay công chúa, và nàng liền mở mắt chỗi dậy. Thế là hoàng tử rước công chúa về kinh thành, xin vua cha tổ chức lễ cưới linh đình. * Công chúa ngủ trong rừng chính là hình ảnh của người tín hữu an nghỉ trong ơn nghĩa Chúa. Sau một giấc ngủ dài họ được Thái Tử Bình An là chính Chúa Giêsu cầm tay nâng dậy, đưa vào tiệc cưới Nước Trời. Chúng ta tin rằng con người sinh ra là để được sống mãi. Cái chết chỉ là ngưỡng cửa đưa vào chốn trường sinh. Một người chỉ có một cuộc sống, cuộc sống đời này sẽ quyết định số phận cho cuộc sống đời sau. Việc thiện hôm nay sẽ bảo đảm cho hạnh phúc ngày mai. Đúng như câu hát của nhạc sĩ Hoàng Vân: "Ngày mai, đang bắt đầu từ ngày hôm nay". Phái Xa đốc, trái lại, họ không tin có sự sống đời sau, cũng chẳng tin có sự sống lại, nên hôm nay, Chúa Giêsu muốn tiết lộ một vài hình ảnh của đời sau rằng: Đời sau khác hẳn đời này. Người ta "không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng" vì con người "không thể chết nữa", nên đâu cần sinh con để bảo tồn nòi giống, nhưng được "sống ngang hàng với các thiên thần" là ca ngợi, tôn vinh và phụng thờ Thiên Chúa. Họ được thông phần vinh quang Thiên Chúa (Lv 12, 7), được dự phần vào dòng dõi của Người (1 Ga 3, 2). Thánh Phao lô viết: "Việc kẻ chất sống lại cũng vậy. Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí mà chỗi dậy là thân thể có thần khí (1 Cr 15, 42-44). Quả thật, con người được Thiên Chúa dựng nên để sống trường sinh, nhưng vì sự đố kỵ của ma quỷ mà cái chết đã nhập vào thế gian. Thánh ý của Thiên Chúa không thể mãi mãi bị ngăn chặn bởi quỷ ma, con người phải tìm lại được quyền bất tử của mình. Đó là sự sống lại của những người Công chính. Lời than thở của thánh Augúttinô đã nói lên nỗi khát khao của con người: "Lạy chúa Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, nên lòng con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ an trong Chúa". Chúa dựng nên con người để hưởng hạnh phúc, nhưng không chỉ là hạnh phúc tạm bợ đời này, mà là hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau, về với Đấng hằng đợi chờ và yêu thương ta mãi mãi. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú bên đường mà quên cùng đích cuộc đời là phải gặp được Chúa. Có những kẻ sống như thể mình không bao giờ phải chết, họ ung dung hưởng thụ những thú vui trần tục. Họ đã chết ngay khi còn đang sống. Có những kẻ sống như thể chỉ có đời này, tự điển sống của họ không có từ "đời sau". Họ đang sống mà như đã chết. * Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con hưởng dùng hương hoa của cuộc sống cùng với bao niềm vui và hạnh phúc. Chúng con chỉ xin Chúa thêm một ân huệ này là cho chúng con được về hợp hoan với Chúa đời đời. Amen. (Thiên Phúc) * 4. Nghĩ đến sự chết Càng lớn tuổi, chúng ta càng ý thức rằng cuộc sống này ngắn ngủi chừng nào và mỏng dòn như thế nào. Và mặc dù không muốn, càng ngày chúng ta càng nghĩ nhiều về sự chết. Việc suy nghĩ về sự chết không nên khiến chúng ta bi quan sợ hãi, trái lại nó phải đem đến cho chúng ta những giá trị tích cực: nhờ nghĩ đến cái chết, chúng ta sẽ yêu quý sự sống hơn; nhờ nghĩ đến cái chết, chúng ta sẽ đón nhận từng ngày sống như một món quà; và khi đón nhận cuộc sống như một món quà của Chúa, chúng ta sẽ sống mà yêu thương Chúa nhiều hơn. Chết chỉ là một bước đi qua. Tuy nhiên, nhiều người nghe nói thế mà không muốn tin như thế. Thực ra, có gì khó tin lắm đâu? Cuộc đời vốn gồm nhiều bước đi qua: Khi chúng ta sinh ra là chúng ta đi qua từ cuộc sống trong bụng mẹ sang cuộc sống bên ngoài. Khi chúng ta đến trường là chúng ta đi qua từ cuộc sống ở gia đình nhỏ bé sang cuộc sống ở một cộng đồng rộng lớn hơn. Khi lập gia đình là chúng ta đi qua từ cuộc sống một mình sang cuộc sống lứa đôi. Khi đến tuổi hưu dưỡng, chúng ta sẽ đi qua từ cuộc sống làm việc sang cuộc sống nghỉ ngơi. Mỗi một bước đi qua đều dẫn đến một tình trạng vừa giống như chết nhưng đồng thời cũng là một cách sống mới. Thì ngày chết cũng vậy: đó là một bước đi qua từ cuộc sống đời này sang cuộc sống đời sau. * 5. Làm chứng cho niềm tin vào cuộc sống đời sau Bà mẹ và 7 người con trong bài đọc I là những người tin có sự sống đời sau, và họ đã làm chứng cho niềm tin ấy bằng cách dám hy sinh mạng sống đời này. Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau thì chúng ta cũng phải làm chứng cho người khác thấy là chúng ta thực sự tin như thế. Người khác mà thấy chúng ta thực sự tin như thế thì có thể họ mới tin theo chúng ta. Nhưng thế nào là chứng tỏ mình thực sự tin vào cuộc sống đời sau? Là chúng ta dám từ bỏ những thứ mà cuộc sống đời này cần. Là chúng ta không quá sợ khổ và sợ chết. Là trong khi còn sống, chúng ta không chỉ tìm kiếm những giá trị vật chất để bảo đảm cho đời này, mà còn tìm kiếm cách hăng say hơn những giá trị tinh thần và đạo đức là bảo đảm cho cuộc sống đời sau. * 6. Kinh nghiệm cận tử Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là "kinh nghiệm cận tử" (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau: Cảm nghiệm thứ nhất của những người ấy là thấy mình rời khỏi thân xác của mình, đồng thời cảm thấy nhẹ nhàng dễ chịu sau khi rời khỏi thân xác. Cảm nghiệm thứ hai là thấy mình đi trong một đường hầm rất dài. Sau khi đi hết đường hầm thì tới một vùng ánh sáng và gặp một Đấng tỏa ra ánh sáng. Thứ ánh sáng này sáng hơn mọi thứ ánh sáng họ đã từng thấy ở trần gian nhưng không chói mắt mà lại rất dễ chịu, đến nỗi họ muốn được ở mãi trong ánh sáng đó và bên cạnh Đấng tỏa ánh sáng đó. Cảm nghiệm thứ ba là được Đấng sáng láng ấy cho thấy lại cuộc đời của họ, giống như xem một cuốn phim quay tất cả những lời nói việc làm và suy nghĩ của họ từ hồi có trí khôn cho đến lúc chết. Lúc xem lại cuốn phim cuộc đời ấy, khi thấy một việc xấu thì tự nhiên lòng họ cảm thấy buồn và bứt rứt khó chịu, đồng thời đấng sáng láng ấy đánh giá cho họ biết đó là một việc làm không tốt. Ngược lại khi thấy một việc tốt thì họ cảm thấy vui, dễ chịu và hạnh phúc, đồng thời đấng sáng láng ấy khen thưởng. Những việc tốt là những việc đã làm vì lòng yêu thương, những việc xấu là những việc họ đã làm do động cơ không yêu thương. Được ở trong ánh sáng huyền diệu ấy và ở gần đấng sáng láng ấy, ai cũng cảm thấy vô cùng hạnh phúc nên muốn ở lại mãi, nhưng Đấng ấy bảo: "Bây giờ con chưa được ở lại, vì con còn nhiều việc bổn phận phải làm ở trần gian. Vậy con phải về". Và khi đó là lúc họ tỉnh lại. Tất cả những người sống lại ấy đều thay đổi cách sống: từ đó trở đi họ không sợ chết nữa; họ không coi trọng việc tìm kiếm danh lợi thú nữa mà chỉ lo chu toàn bổn phận và đối xử với mọi người bằng tình thương. V. Lời nguyện cho mọi người Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu nói: Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Tin tưởng vài tín điều kẻ chết sống lại, chúng ta cùng dâng lời cầu xin: 1. Hội thánh là hiện thân của Thiên Chúa Tình yêu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / biết cố gắng sống trọn vẹn đức bác ái yêu thương / để mọi người nhận biết Chúa qua chính đời sống của mình. 2. Thử thách gian truân dễ làm cho con người mất niềm tin / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang gặp khó khăn / buồn phiền trong cuộc sống / biết tìm đến Chúa là Đấng hay an ủi kẻ ưu phiền. 3. Chúa yêu thương hết thảy mọi người / không bao giờ kỳ thị thiên tư / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết noi gương Chúa trong cách cư xử của mình. 4. Cuộc sống hôm nay quyết định số phận mai sau của người tín hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết nhiệt thành sống đức tin / để nhờ đó mà được hưởng sự sống đời đời. Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô, việc Chúa Phục sinh từ cõi chết là một đảm bảo cho cuộc sống đời sau của chúng con. Xin cho chúng con biết tuân giữ trọn vẹn Lề Luật của Chúa, để sau này cùng được chung hưởng vinh phúc trên trời với Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. VI. Trong Thánh Lễ - Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài. Ngài dẫn dắt từng bước chân ta đi trên con đường dương thế này, và cuối cùng Ngài sẽ dẫn chúng ta về nhà Ngài. Với tất cả lòng tin yêu phó thác, chúng ta hãy cầu nguyện với Ngài. VII. Giải tán Xin Thiên Chúa thắp lên trong lòng anh chị em niềm hy vọng vào cuộc sống đời sau. Xin cho niềm hy vọng ấy là động cơ giúp anh chị em sống tốt trong từng giây phút của cuộc sống đời này. Lễ xong, chúc anh chị em luôn bình an. 7. Cuộc sống mai hậu--Lm Giuse Đinh Lập Liễm A. DẪN NHẬP. Chết là một qui luật phổ biến: mọi người đều phải chết. Người Việt nam chúng ta tin rằng, trong tình trạng bình thường, cuộc đời của mỗi người phải trải qua 4 giai đọan: sinh, lão, bệnh, tử. Chết là giai đọan kết thúc cuộc đời. Nhưng chết rồi sẽ ra sao? Đi về đâu? Hay là đi vào hư vô? Người Việt chúng ta tin rằng chết là trở về cội nguồn vì “Sinh ký tử qui” (Hòai Nam Tử): Sống là gửi, là nhờ, chết mới là về! Trong thời Đức Giêsu, người ta cũng tin như thế, nhất là với nhóm biệt phái. Nhưng nhóm Sađucêu là những tư tế thiên về chính trị và vật chất thì không tin như thế. Họ không tin có sự sống lại và sự sống đời sau. Do đó họ đã cố bịa ra một câu chuyện kỳ cục để gài Đức Giêsu vào thế bí và để cho mọi người thấy rằng sống lại là một chuyện lố bịch. Nhưng dựa vào Kinh Thánh, Đức Giêsu đã chứng minh cho họ là có sự sống lại và có đời sau; đồng thời cũng cho họ biết là đời sống mai hậu khác với đời sống ở trần gian này, không còn cưới vợ gả chồng nữa, người lành sống lại giống như các thiên thần luôn lo việc phụng thờ và ca ngợi Thiên Chúa trong hạnh phúc vinh quang. Chúng ta vẫn tuyên xưng niềm tin ấy khi đọc kinh Tin kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Lời thánh Phaolô nhắn gửi cho tín hữu Côrintô càng làm cho chúng ta xác tín: “Nếu chết là hết, thì quả thật chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong thiên ha”(x. 1Cr 15,19). Cuộc sống của chúng ta ở trần gian này là cuộc hành trình đi về nguồn cội là quê trời, nơi mà Đức Giêsu đã nói: “Để con ở đâu thì chúng cũng ở nơi đó với Con”. Cuộc sống mai hậu của chúng ta sẽ như thế nào thì tùy thuộc vào cuộc sống hiện tại của chúng ta ở trần gian này vì “gieo giống nào thì gặt giống nấy”. B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. + Bài đọc 1: 2Mcb 7,1-2.9-14. Khi cuộc bách hại khốc liệt xẩy ra vào thế kỷ II thời vua Antiochus, dân Do thái đã có những vị tử đạo. Câu chuyện kể về một bà mẹ với 7 người con thà chịu chết chứ không chịu bỏ đạo Chúa đã chứng tỏ niềm tin ngày càng gia tăng rằng sau khi chết, mỗi người vẫn còn tiếp tục sống. Lần đầu tiên các vị tử đạo của Cựu ước đã khẳng định xác kẻ lành sẽ được phục sinh. Sở dĩ những thanh niên này can đảm chối từ sự sống trần thế, là vì họ tin chắc rằng Thiên Chúa đủ quyền năng để phục sinh họ vĩnh viễn. Giá trị câu chuyện ở chỗ cho thấy sự phục sinh không là một ý tưởng. Đó là niềm hy vọng cho những ai chịu mất mạng. Hồng ân đáp lại sự dâng hiến. Ai không bao giờ cho sẽ không mong lãnh nhận được điều gì. Tư tưởng này liên kết với Tin mừng hôm nay. + Bài đọc 2: 2Tx 2,16-3,5. Tiếp theo đoạn thư của Chúa nhật tuần trước, thánh Phaolô khuyên tín hữu Thessalonica hãy kiên tâm bền chí. Khó khăn không thiếu, nhưng phương tiện để vượt qua cũng nhiều, đó là lòng trung tín chân thật dựa trên Lời Chúa và những hướng dẫn của ngài. Sau đó, ngài xin họ cầu nguyện cho việc truyền giáo của ngài được thành công, dù gặp nhiều chông gai. Ngài phục vụ Lời Chúa và mong Lời Chúa được hoàn thành cũng như được “tôn vinh” nơi lời đáp xin vâng của những người được Lời Chúa kêu gọi. + Bài Tin mừng: Lc 20,27-38. Nhóm Sađucêu thiên về chính trị có quan điểm khác với nhóm biệt phái và luật sĩ. Họ không tin có cuộc sống đời sau. Họ không công nhận điều gì ngoài những điều Thiên Chúa đã mạc khải cho Maisen. Họ bác bỏ sự sống lại và cho rằng đó chỉ là truyền thống hoàn toàn của con người. Họ tưởng rằng cuộc sống mai hậu nếu có thì cũng chỉ như cuộc sống ở đời này, cũng cưới vợ gả chồng, sinh con cái và hưởng thụ tất cả lạc thú như ở đời này. Nên họ đưa ra cho Đức Giêsu một vấn nạn khó giải quyết. Để trả lời cho họ, Đức Giêsu vừa xác nhận có sự sống đời sau, vừa cho họ biết ý nghĩa về cuộc sống ấy: - Trong cuộc sống mai hậu, người ta sẽ bất tử, không còn vấn đề truyền sinh, nên không còn cưới vợ gả chồng nữa. - Trong ngày sống lại, người ta sẽ giống như các thiên thần để hưởng hạnh phúc bên Chúa. Đức Giêsu cho chúng ta hiểu rằng ngôn ngữ loài người không đủ sức diễn tả tình trạng cụ thể của người được phục sinh. Câu hỏi của nhóm Sađcêu vì thế không đáng phải ghi nhớ. C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Cuộc sống mai hậu của chúng ta. I. MỘT VẤN NẠN ĐƯỢC ĐẶT RA. 1. Thân thế nhóm Sađucêu. Trong thời Đức Giêsu, có ba nhóm rất có thế lực và chi phối đời sống tôn giáo cũng như xã hội Do thái. Ba nhóm ây là luật sĩ, biệt phái và Sađucêu. Nhóm luật sĩ và biệt phái là những người đạo đức chuyên lo việc học hỏi Thánh Kinh và giữ luật một cách tỉ mỉ. Họ chuyên lo việc đạo chứ không quan tâm đến chính trị. Tuy thế, họ là những người giả hình và hay chống đối Đức Giêsu. Nhiều lần Ngài đã phải thẳng thắn vạch trần bộ mặt giả dối của họ. Còn nhóm thứ ba là Sađucêu. Đây là một nhóm tư tế cao cấp trong Do thái giáo. Họ có quyền cả về sinh hoạt tôn giáo và chính trị Do thái từ trước thời Đức Kitô. Họ chỉ chấp nhận Ngũ Kinh, coi Maisen là vị tiên tri vĩ đại và hoài nghi các tiên tri khác. Họ không tin linh hồn bất tử và sự sống lại (họ trái ngược và kình địch với nhóm biệt phái) vì hai lý do: một là họ bảo giáo lý về sự sống đời sau không có trong Thánh Kinh (đối với họ chỉ có luật Maisen thôi), hai là họ nghĩ rằng: quyền năng của Thiên Chúa không vượt qua con người. 2. Một cái bẫy được giương ra. Với trí khôn minh mẫn và trào phúng, họ cố làm cho câu chuyện sống lại trở nên lố bịch và buồn cười, họ đã nại đến thế giá ông Maisen mà Đức Giêsu không thể không nhìn nhận (Đnl 23,5) để bịa ra câu chuyện về sự sống lại. Theo luật Maisen, luật mà Thánh Kinh gọi là luật Levirat (Dt 25, 5-10), khi có người anh em trong gia đình chết mà không có con, người anh em còn sống phải lấy chị dâu hay em dâu góa để gây dòng họ cho anh em mình. Đứa con đầu tiên sinh ra do sự phối ngẫu này được xem như là con đẻ của người anh xấu số, được phép nhân danh người quá cố để tiếp tục sống trong cộng đoàn Israel. Theo phái Sađucêu, việc áp dụng luật như vậy, nhất thiết chứng minh rằng không có sự sống lại. Họ hỏi Đức Giêsu: Nếu một người đàn bà theo luật Levirat lấy liên tiếp 7 anh em mà không có con thì khi sống lại bà là vợ ai? Thực ra, trong thực tế không có trường hợp nào xẩy ra như vậy; nhưng ở đây chỗ quá đáng của 7 anh em có mục đích cho ta thấy việc sống lại là một việc không thể tin được. Cái sai lầm của những người Sađucêu đặt ra câu chuyện này là ở chỗ quan niệm có tính cách vật chất về sự sống lại. Họ nghĩ đời sống trần gian này thế nào, thì khi sống lại ở đời sau cũng vậy: Đời này dựng vợ gả chồng thì đời sau cũng chồng nào vợ nấy. II. MỘT GIẢI ĐÁP ĐƯỢC THỰC HIỆN. Đức Giêsu đã trả lời bằng cách bác bỏ quan niệm sai lầm về sự sống lại mà phái Sađucêu chế giễu. Ngài chứng minh rằng: “Con cái đời này cưới vợ gả chồng”, sự sống tại trần thế có cưới vợ gả chồng vì lẽ đời sống con người có sinh có tử, và vì có tử nên con người cần phải dựng vợ gả chồng để truyền sinh và nối dõi. Trong đời sống mai hậu họ không còn cưới vợ gả chồng vì hai lý do: một là vì họ sẽ không thể chết được nữa, và họ được ngang hàng với các thiên thần; hai là vì họ trở nên con cái Thiên Chúa, và là con cái của sự sống lại, nghĩa là được thừa hưởng một thế giới mới và sự sống mới từ nơi Thiên Chúa. * “Quả thật, họ không thể chết nữa”, vì được ngang hàng với các thiên thần: khi sống đời đời, người ta sẽ không còn lo lắng việc đời nữa, ngoài việc phụng sự và ngợi khen Thiên Chúa, giống như nhiệm vụ của các thiên thần. * “Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”: Kiểu nói của người Sêmít này có nghĩa là một khi được Thiên Chúa nhận là con cái thì họ cũng được thừa hưởng thế giới mới và sự sống mới nhờ việc sống lại (x. Ep 1,5; Rm 8,18-21). Còn nói về việc kẻ chết sống lại thì Đức Giêsu dựa vào Thánh Kinh để chứng minh có sự sống lại. Ngài nêu ra một đoạn trong sách Xuất hành mà nhóm Sađucêu công nhận để chứng minh chân lý ấy: khi hiện ra với Maisen trong bụi gai đang cháy, Thiên Chúa đã tự xưng là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaác và Thiên Chúa của Giacóp (x. Xh 3,6). Mà Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống: Các tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp dù đã qua đời, nhưng câu nói của Thiên Chúa với Maisen có hàm ý là các vị ấy hiện vẫn còn sống. Vì Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống đang điều khiển lịch sử loài người. Ngài không thể là Thiên Chúa của những kẻ chết, mà phải là của những kẻ sống. Con người gồm cả hồn lẫn xác, nên không những linh hồn con người thiêng liêng không bao giờ chết được, mà cả thân xác con người, dù có hóa thành bụi đất, thì nhờ quyền năng của Thiên Chúa Hằng Sống, cũng sẽ được sống lại trong ngày tận thế (x. Ga 11,23-26). III. CUỘC SỐNG ĐỜI NAY VÀ MAI HẬU. 1. Chết là một qui luật phổ biến. Có biết bao vĩ nhân thế giới, biết bao anh hùng cái thế đã qua đi mà chỉ còn trong sử sách. Ngay Hoàng đế Tần Thủy Hoàng của Trung hoa xưa đã truyền lệnh cho các thầy thuốc tìm ra thuốc trường sinh cho nhà vua mà đành chịu bó tay. Ông đã chết như mọi người. Kinh nghiệm này đã được Văn Thiên Trường nói lên như một khẳng định: Nhân sinh tự cổ thùy vô tử Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh. “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử”: từ xưa đến nay ai mà không chết? Đúng vậy. Đời người ngắn ngủi lắm. Thi sĩ Cao Bá Quát cũng nói lên kinh nghiệm đó trong mấy vần thơ: Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười. hôi công đâu chuốc lấy sự đời, Tiêu khiển một vài chung lếu láo. Thi sĩ nghĩ rằng đời người vắn vỏi lắm, dài nhất là 3 vạn 6 ngàn ngày, nghĩa là 100 năm, sau đó thì ai cũng chết, mà chết là hết tất cả, cho nên còn sống bao lâu thì hãy lo ăn chơi, hưởng thụ, uống rượu “tiêu khiển một vài chung lếu láo”. 2. Nhưng chết là gì? Có nhiều cách định nghĩa về cái chết nhưng không định nghĩa nào thấy thỏa đáng. Chúng ta chỉ biết rằng con người kết thúc cuộc đời này khi linh hồn lìa khỏi xác. Chỉ khi nào linh hồn lìa khỏi xác thì mới là chết thật. Chết là một sự chuyển đổi chứ không phải là một mất mát, đi vào ngõ cụt hay đi vào hư vô. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu trước khi sinh thì đã nói với chị em đang đứng chung quanh: “Em không chết đâu, em đi vào cõi sống”. Ngay cả những người ngoại giáo từ ngày xưa đã tin như thế, nên Hòai Nam Tử đã nói: “Sinh ký tử qui”: sống là sống gửi, còn chết mới là về. Về đâu? Đi về cội nguồn, đi về một kiếp khác chứ không phải đi vào hư vô. Cũng trong niềm tin đó, thi sĩ Nguyễn Du trong “Đoạn trường tân thanh” đã khẳng định: “Thác là thể phách còn là tinh anh”. Lời than thở của thánh Augustinô đã nói lên nỗi khát khao của con người được an nghỉ trong Chúa sau khi lìa cõi đời này: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, nên hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”. Truyện: Đại tá David Marcus. Đại tá David Marcus bị chết trong trận chiến ở Israel tháng 6 năm 1948. Trong bóp của ông, người ta thấy một tấm thẻ ghi lại những lời thi vị hóa cái chết như sau: “Tôi đang đứng trên bờ biển. Bên cạnh tôi một con tầu đang trương buồm trắng phất phơ trong gió sớm hướng về đại dương. Con tầu trông thật đẹp và mạnh mẽ. Tôi đứng nhìn theo nó cho đến khi nó chỉ còn là một dải mây trắng nơi trời và nước hòa lẫn với nhau. Lúc đó có người đứng cạnh tôi thốt lên: “Kìa, con tầu biến mất rồi”! – Biến đi đâu? – Biến khỏi tầm mắt tôi, thế thôi! Nó vẫn là cột buồm, là vỏ tầu rộng lớn như lúc nó rời cạnh tôi và cũng vẫn đủ khả năng mang hàng hóa tươi sống đến nơi đã định. Kích thước con tầu chỉ giảm đi trong ánh nhìn của tôi chứ không phải nơi chính nó. Và ngay lúc đó tiếng người cạnh tôi vang lên: “Kìa! Nó biến mất rồi”! thì lại có nhiều tiếng khác ở chân trời đàng kia vang lên đầy hoan hỉ: “Kìa! Nó đến rồi”! Và đó chính là lúc chết (M. Link). 3. Kiếp sống mai hậu. Nhiều người tự nghĩ: nếu cuộc sống chỉ có đời này, và chết là hết, thì liệu những việc tôi đang làm đây có ý nghĩa gì không? Và nói như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô: “Nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ” (x. Cr 15,19). Quả thật, nếu không có niềm tin vào sự sống lại, không có niềm tin vào sự phán xét công minh và yêu thương của Thiên Chúa sau khi chết, có lẽ không ai trong chúng ta ngu dại gì mà sống ngay thẳng, thành thật; và cũng chẳng có ai dù đủ kiên trì để chịu đựng những thử thách, bất công, hoặc cũng chẳng ai dại gì mà đi chia sẻ, giúp đỡ người khác nếu điều đó không có lợi cho mình. Tiền nhân chúng ta tin tưởng: “Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng”: Có công thì được thưởng, có tội thì phải phạt. Điều này rất hợp với tự nhiên, bởi vì kinh nghiệm đã cho thấy nhiều người ngay lành gặp phải rủi ro trong khi những người tội lỗi gặp nhiều may mắn, nếu không có thưởng phạt đời sau, thì sao cho hợp lẽ công bằng? Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử”(near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau: - Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này. - Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer). Chúng ta chưa ai có kinh nghiệm về cuộc sống mai hậu nên không thể hiểu được và cũng không diễn tả được, nhưng chúng ta hãy tin vào Lời Chúa. Đức Giêsu cho chúng ta biết trật tự, cách tổ chức, sinh hoạt, cách thế hiện hữu trong cuộc sống mai hậu không giống như cuộc sống đời này. Không thể lấy kinh nghiệm hiện hữu của cuộc sống này để áp dụng vào việc suy đoán cách hiện hữu của cuộc sống mai hậu. Đối với cuộc sống mai hậu, con người không hề có một kinh nghiệm nào và cũng không có một từ ngữ nào tương xứng để diễn tả. Thánh Phaolô có nói về sự siêu nghiệm ấy như sau: “Điều mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người là điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ được”(1Cr 2,9). Đức Giêsu đã khẳng định: Đời sống của các kẻ sống lại được hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống, là đời sống hoàn toàn mới lạ so với đời sống trần gian này. Đời sống đó không có kiểu mẫu nào ở đời này cả. Đó là một cuộc sống không thể nào tưởng tượng ra nổi, một cuộc sống hoàn toàn được biến đổi, một cuộc sống của những người “con Thiên Chúa”, những “người được hưởng ơn phục sinh”: “Họ giống như các thiên thần”. Truyện: Bác sĩ Paul Nagai. Chết không phải là hết. Paul Nagai, từ sau quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki, đã trở thành con người bất hủ, vì sự tận tụy và tấm lòng hy sinh vô bờ bến của ông đối với các nạn nhân. Chính ông đã để lại mấy dòng tâm sự làm cho ta biết tại sao ông từ vô thần đã trở thành con người có tin tưởng. “Trong kỳ nghỉ xuân – lời ông - lúc đó tôi học hết năm thứ hai đại học y khoa, mẹ tôi bị trúng phong. Tôi hối hả chạy đến đầu giường mẹ tôi, người chỉ còn một chút hơi thở. Mẹ tôi trừng trừng nhìn tôi, mà thở ra. Cái nhìn cuối cùng của cặp mắt bà mẹ đã sinh ra, đã giáo dục và đã thương tôi đến cùng, cặp mắt này nói cho tôi một cách rõ rệt: dầu sao khi người khuất núi, người vẫn còn luôn luôn ở bên Takashi yêu dấu của bà. Tôi nhìn trong con mắt đó, tôi con người đã không tin có linh hồn và tự nhiên tôi cảm thấy: linh hồn mẹ tôi có; linh hồn mẹ tôi lìa khỏi xác nhưng còn tồn tại mãi mãi”. Sau đó ông thêm rằng: “Con người tôi đã đổi hẳn, dầu tôi làm hết sức cũng không thể làm cho tôi tin phục rằng cái đã gọi là mẹ tôi đã bị hoàn toàn tiêu diệt… Con mắt tôi lần đầu tiên mở ra nhìn thấy cái thế giới siêu hình” (Văn Quy, Đi về đâu, tr 7-8). 4. Tin vào sự sống lại. Chúng ta rất phấn khởi và đầy tin tưởng khi đọc lời tung hô Alleluia: “Vạn tuế Đức Kitô, Đấng đầu tiên từ cõi chết sống lại. Người vinh hiển quyền năng. Vạn vạn tuế”. Người là đầu thân thể đã sống lại để cho chi thể được sống lại với Người. Mỗi khi chúng ta đọc kinh Tin kính, chúng ta vẫn tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Chúng ta tuyên xưng như thế và chúng ta tin điều đó dễ dàng. Chứ thực ra vấn đề này không dễ dàng cả vào thời Đức Giêsu lẫn ở thời nay. Người Kitô hữu tin rằng không chỉ có linh hồn tham dự vào cuộc sống mai hậu, mà cả thân xác cũng sẽ sống lại sau khi hư nát một thời gian, để tham dự vào sự sống thần linh và vĩnh cửu đời sau. Thân xác ấy sẽ được biến đổi để phù hợp với cách hiện hữu mới ấy. Niềm tin vào sự sống lại được xây dựng trên nền tảng sự sống lại của Đức Kitô, mà các tông đồ là những người đã thấy tận mắt, đã sẵn sàng chịu đau khổ và chết để làm chứng. “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng”(Cv 2,32; 10,41).Đây là một trong những niềm tin căn bản nhất của người Kitô hữu, đến nỗi có thể nói ai không tin vào sự sống lại thì không phải là Kitô hữu. Tin vào sự sống lại không phải là niềm tin vu vơ, phản khoa học, nhưng ngược lại chính các nhà khoa học thượng thặng lại tin nhận điều đó. Ông Eymieu đã công bố bản thống kê 432 nhà bác học thế kỷ 19 thì có 367 vị tin có Thiên Chúa và sự sống lại. Bác sĩ Dennaert người Đức cho biết trong số 300 nhà bác học lỗi lạc nhất ở 4 thế kỷ vừa qua có 242 vị tin, 38 vị không rõ lập trường, 20 vị không tin và dửng dưng (Văn Quy, Đi về đâu, tr 39). Truyện: Con bọ nước. Một nhà sản xuất và giám đốc của một hãng phim lớn, ông Cecil B. DeMille vừa có nhiều năng khiếu về nghệ thuật, lại có đời sống nội tâm sâu xa nữa. Ông nhận xét sự chia sẻ của mình với bạn bè như sau: “Trong khi đi thuyền canô trên hồ Maine, ông chú ý thấy một bầy con bọ nước cánh cứng ngay dưới mặt nước. Một con trong bầy ngoi lên trên mặt nước và từ từ bò lên mạn thuyền canô. Sau cùng, nó phấn đấu leo lên được bên trên thuyền, bám vào thành gỗ và lăn ra chết. DeMille đã quên bẵng đi con bọ nước này cho đến mấy tiếng đồng hồ sau đó ông lại chú ý thấy một con bọ nước khác. Trong ánh mặt trời ấm áp, cái vỏ cứng bên ngoài của nó đã trở nên khô và dòn. Chăm chú theo dõi, ông thấy cái vỏ của nó đã vỡ đôi ra, và từ bên trong nổi ra một hình thức mới, một con chuồn chuồn, cất cánh bay lên không gian với mầu sắc tráng lệ lóng lánh trong ánh mặt trời. Chỉ trong một thoáng, con chuồn chuồn đã bay được xa hơn là con bọ nước bò đi chậm chạp trong nhiều ngày. Nó bay lượn vòng quanh, phóng lên, lao xuống, chập chờn trên mặt nước. DeMille chú ý thấy cái bóng của nó in hình trên mặt hồ. Con bọ ở dưới nước cũng có thể nhìn thấy điều đó, nhưng bây giờ người đồng loại của chúng trước đây đã hiện hữu trong một tình trạng vượt xa sự hiểu biết của chúng. Còn con bọ nước vẫn đang sống trong thế giới nhỏ bé và giới hạn, trong khi người anh chị em bà con của nó đã có được tất cả sự tự do giữa trái đất và bầu trời. Khi nói với bạn bè của ông điều đã nhìn thấy, DeMille đã kết luận với câu hỏi gợi ý như sau: “Có thể nào Thượng Đế vĩ đại của vũ trụ làm điều đó cho con bọ nước, lại không làm cho con người sao”(Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa…, tr 367-368). 5. Chuẩn bị cho đời mai hậu. Chúa dựng nên con người để hưởng hạnh phúc, nhưng không phải chỉ là hạnh phúc tạm bợ đời này, mà là hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau, về với Đấng hằng đợi chờ và yêu thương ta mãi mãi. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú bên đường mà quên cùng đích cuộc đời là phải gặp được Chúa. Có những kẻ sống như thể mình không bao giờ phải chết, họ ung dung hưởng thụ những lạc thú trần tục. Họ đã chết ngay khi còn đang sống. Có những kẻ sống như thể chỉ có đời này, tự điển sống của họ không có từ “đời sau”. Họ đang sống mà như đã chết. Cuộc đời này tuy ngắn ngủi, nhưng lại rất quan trọng: nó ảnh hưởng một cách quyết định đến cách thế hiện hữu của ta trong cuộc sống mai hậu. Một người sống đầy tình người, đầy yêu thương ở đời này chắc chắn tình trạng đời sau sẽ khác hẳn với người đời này sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình. Đời này là nhân, đời sau là quả: nhân nào sinh quả nấy, cây nào sinh trái nấy, “Cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, cũng như cây xấu không thể sinh trái tốt”(Mt 7,17-18). Người làm tốt sẽ được thưởng, người làm điều xấu sẽ bị phạt như thư Rôma và sách Khải huyền viết: “Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm”(Rm 2,6; Kh 2,23). Nói đến nguyên tắc “gieo gì thì gặt nấy”, phương Tây có một câu ngạn ngữ rất hay: Nếu bạn muốn hạnh phúc một ngày, hãy mua một cái áo mới. Nếu bạn muốn hạnh phúc một tuần, hãy làm thịt một con heo. Nếu bạn muốn hạnh phúc một năm, hãy cưới vợ lấy chồng. Nếu bạn muốn hạnh phúc một đời, hãy làm người sống tử tế. Nếu bạn muốn hạnh phúc muôn đời, hãy làm người có đạo tốt. Để kết luận, chúng ta tự hỏi: Tôi sẽ chọn cho mình cách sống nào? Sống để chiếm lấy vĩnh cửu hay là chỉ những kẻ chọn lấy đời này và đánh mất đời sau? Đời sau vẫn cứ là huyền nhiệm lớn không thể tả. Chẳng ai biết thiên đàng, hỏa ngục như thế nào. Người ta chụp được rất nhiều hình ảnh lạ mắt, nhưng chưa từng có ai lấy được hình ảnh của thiên đàng hay hỏa ngục. Vì không thể tìm được chân dung, người tín hữu nói riêng và loài người nói chung, dễ bị cuốn hút vào những cái thấy được của cuộc đời này, bám chặt vào nó đến nỗi có lúc đã trở nên tội lỗi và lún sâu vào tội lỗi. Chúng ta hãy tâm niệm rằng Sống là để chết. Ta biết mình đang đi về đời sau để gặp Đấng mà mình tin yêu suốt đời. Vì thế, cái chết không làm cho chúng ta bi quan, ngược lại, cái chết dạy ta biết cách sống. Ta hãy sống như sẽ chết, để khi chết, ta trở về nguồn cội đích thật của mình là quê hương vĩnh cửu. Nơi đó Chúa đang chờ để ban hạnh phúc muôn đời cho kẻ đã “xét đáng được dự phần đời sau” là chính chúng ta. 8. Vấn đề sống lại--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng Mấu chốt của vấn đề mà nhóm Xa-đốc hỏi Chúa Giêsu là sự sống lại và sự sống đó như thế nào. Chúa đã trả lời làm hai bước: Trước hết, Chúa nói về bản chất của cuộc sống sau khi sống lại, sau đó, Chúa đưa ra một lập luận dựa trên một kiểu nói cơ bản nhất trong bộ Ngũ Kinh là những sách mà những người Xa-đốc công nhận là Sách Thánh. Trước hết, về bản chất của cuộc sống sau khi sống lại. Chúa cho biết nó không phải là một sự lặp lại cuộc sống trần gian, hai yếu tố của cuộc sống trần gian mà những người Xa-đốc nêu lên là chuyện cưới vợ lấy chồng và cái chết thì sẽ không còn nữa, những người đã sống lại thì được ngang hàng với các thiên thần nên không thể chết được nữa. Sự sống sau khi sống lại là sự tham dự trọn vẹn vào cuộc sống của Thiên Chúa, lúc đó người ta mới thể hiện đầy đủ bản chất là con Thiên Chúa, vì người ta được sống bằng chính sự sống của Thiên Chúa. Con của loài vật thì có sự sống của loài vật, con của loài người thì có sự sống của loài người, con của Thiên Chúa thì có sự sống của Thiên Chúa. Người ta được ngang hàng với các thiên thần, giống như các thiên thần, không còn bận tâm nào khác ngoài việc chiêm ngắm và ngợi khen Thiên Chúa. Vậy thì lập luận của những người Xa-đốc không đứng vững, bởi vì chính quan niệm của họ về cuộc sống sau khi sống lại không đúng. Tiếp theo, Chúa Giêsu dựa vào một kiểu nói cơ bản rút ra từ một đoạn văn then chốt trong Cựu Ước và đối với lịch sử Do Thái, đó là đoạn văn kể việc Thiên Chúa hiện ra với ông Mô-sê dưới hình ngọn lửa cháy trong bụi gai (Xuất Ai Cập 3,6). Chúa nhấn mạnh vào ông Mô-sê, vì phái Xa-đốc nhìn nhận uy quyền của ông. Trong sách thì đây là lời Thiên Chúa tự xưng với ông Mô-sê, nhưng vì truyền thống Do Thái coi đây là sách do ông Mô-sê viết, nên Chúa Giêsu dựa vào đó mà lập luận. Ông Mô-sê gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-sa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Phái Xa-đốc không tin có đời sau, chết là hết, bởi vậy Chúa Giêsu lập luận: nếu chết là hết, thì các vị tổ phụ kia đã chết rồi, mắc mớ chi mà gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp. Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống chứ đâu phải là Thiên Chúa của kẻ chết. Bởi vì đã gọi Ngài là Thiên Chúa của ai tức là người đó đang sống, tuy đối chúng ta thì người đó chết rồi. Ông Mô-sê không khẳng định có sự sống lại, nhưng trong kiểu nói này ông Mô-sê cho thấy rằng có cuộc sống đời sau, con người không chỉ có cuộc sống trên trần gian này thôi, chết không phải là hết, nhưng là đi vào một cuộc sống mới, sống trước mặt Thiên Chúa và sống cho Thiên Chúa. Chúng ta thấy lối lập luận của Chúa Giêsu thật độc đáo, nên những người tranh luận với Chúa đã chịu lý và không thể cãi lại. Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay là dịp thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về lời tuyên xưng cuối cùng trong kinh Tin Kính về sự sống lại và sự sống đời sau. Thực vậy, chúng ta tin có sự sống lại và có sự sống đời sau, nên chết không phải là hết, nhưng là bắt đầu sống thực sự, như chúng ta vẫn hát trong thánh lễ an táng: “Lạy Chúa, đối với tín hữu Chúa, đời sống thay đổi chứ không bị tiêu diệt”. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, trên giường hấp hối, cũng đã nói: “Tôi không chết, tôi đang bước vào sự sống”. Quả thực, sự chết vẫn hiện hữu, nhưng chết chỉ là chốc lát, một khoảnh khắc, một giây phút, một bước đi: từ tạm thời sang vĩnh cửu, từ hữu hạn sang vô hạn, chết là bắt đầu một đời sống mới, một cuộc đời vĩnh cửu. Tóm lại, chết là một sự kiện hiển nhiên không cần phải chứng minh, đã là con người thì sẽ phải chết. Và đối với đức tin của chúng ta, thì thân xác chúng ta chắc chắn sẽ sống lại, nhưng sống lại để sống như thiên thần hay quỷ dữ lại là chuyện khác. Chắc chắn thân xác chúng ta sẽ sống lại, nhưng sống lại để sống hạnh phúc muôn đời hay bất hạnh ngàn thu là vấn đề chúng ta phải hết sức quan tâm, bởi vì kẻ lành, kẻ sống tốt lành thánh thiện cũng sống lại, và kẻ dữ, kẻ sống xấu xa tội lỗi cũng sống lại, nhưng sống lại để được thưởng hay chịu phạt, đó là điều khác biệt. Căn cứ vào đâu để Thiên Chúa thưởng hay phạt chúng ta? Căn cứ vào đời sống hiện nay của chúng ta, đời này quyết định số phận đời sau, như Chúa đã quả quyết: “Ai sống làm sao Ta sẽ trả cho như vậy”, “gieo thứ gì gặt thứ ấy”. Lạy Chúa, cuộc sống này có là bao? Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy? Xin cho chúng con luôn nhớ mình sẽ phải chết để sống tốt, sống lành hầu xứng đáng đón nhận phần thưởng vĩnh phúc. 9. Vấn đề kẻ chết sống lại—Lm JB Lê Ngọc Dũng Con người có một linh hồn bất tử và sự sống đời sau hay không? Con người chúng ta thường hay thắc mắc như vậy. Có lẽ chúng ta nghĩ rằng các tôi giáo đều dạy là có đời sau. Tuy nhiên, Do Thái giáo lại không chủ trương là có đời sau một cách rõ rệt. Hai trường phái lớn của Do Thái giáo bất đồng ý kiến với nhau về đời sau. Trường phái Saducêo không tin có sự sống lại. Họ chống lại niềm tin vào đời sau của trường phái Pharisêu. Họ nêu chuyện 7 anh em cưới một vợ để bác bỏ niềm tin sống lại. Ngày nay, giữa cuộc sống không tin vào Thiên Chúa, hay lãng quên Thiên Chúa, gắn chặt vào vật chất trần gian, vào đời sống thực tại trần gian, thì người ta lại thích những chuyện huyền bí. Những cuốn sách ghi lại những kinh nghiệm của những người trở về từ cõi chết lại là những cuốn sách bán chạy nhất Âu Mỹ. Hai tác giả nổi tiếng nhất trong lãnh vực này là bác sĩ Raymond Moody với cuốn "Đời Sau" (Life After Life) và bác sĩ Melvin Morse với cuốn "Được Ánh Sáng Biến Đổi" (Transformed by the Light). Có người chết lâm sàng 5 phút, có người chết nửa giờ, rồi sống lại. Cả mấy trăm trường hợp, được gọi là sống lại hay hồi sinh, được khảo sát bằng phương pháp khoa học đàng hoàng. Truyện bà Betty Eadie là một trường hợp điển hình cho tất cả những người đã chết rồi sống lại. Những gì thấy được có thể tóm lược vào 4 điểm chính: 1. Sau khi chết thì hồn ra khỏi xác nhìn thấy chính xác của mình và mọi sinh hoạt chung quanh. 2. Rồi hồn như đi nhanh qua một ống tối dài như bà Betty Eadie kể lại trong cuốn "Được Ánh Sáng Ấp Ủ" (trang 39) Đây đúng là thung lũng bóng tối sự chết như Kinh Thánh đã từng nói tới. 3. Gặp được Nguồn Sáng: Có người cảm nghiệm thấy Chúa, có người thấy Đức Maria như bà Betty Eadie: "thấy tắm trong ánh sáng và thấy một bà mầu nhiệm mặc áo trắng đến cầm tay nâng đỡ tôi" (trang 191). "Bây giờ thì tôi biết có Chúa thật... Tôi thấy Ngài điều khiển trí khôn ngoan và sức mạnh này. Tôi thấy trực tiếp rằng Chúa muốn chúng ta trở nên giống như Ngài, và Ngài cho chúng ta những đặc tính giống như Chúa, như óc tưởng tượng và sáng tạo, ý chí tự do, trí thông minh, và nhất là khả năng yêu thương..." (trang 61). Cũng có những trường hợp, thay vì gặp vùng ánh sáng yêu thương, thì lại gặp vùng đen tối hiện hình thành quỉ dữ trong biển lửa khủng khiếp ghê rợn, như bác sĩ Raymond Moody thuật lại trong "Ánh Sáng Muôn Năm" (Light Beyond, Bantam Books 1989, trang 26-27). 4. Được biến đổi: "Tất cả mọi trường hợp đều được biến đổi sau khi đã gặp ánh sáng này... Họ trở nên đầy nhiệt lực và dễ thương hơn, đôi khi họ được sức cảm thụ lạ về những lãnh vực tâm linh trước kia không hề biết" (Được Ánh Sáng Biến Đổi, trang 6). Một số người biết trước truyện sẽ xảy ra trong tương lai hay ở xa "Họ ít sợ hoặc không sợ chết nữa, vì họ biết có một cuộc sống mới.” Những kinh nghiệm về cõi đời sau như thế, được kể lại, chúng ta không biết là thực sự đã xảy ra hay không, vì cũng có thể là chuyện tưởng tượng. Tuy nhiên rất có nhiều điều không sai lạc với giáo lý Công giáo mà còn giúp ta biết được một số nét của cõi đời sau. Ngay chính thánh Phaolô cũng có lần kể lại chuyện về chính mình bị ném đá chết ngất đi tại Lystra: "Tôi sắp kể về các cuộc thị kiến và khải minh Chúa ban cho tôi. Tôi biết có một người trong Đức Kitô, cách đây mười bốn năm được bốc lên tầng trời thứ ba; và tôi biết người đó đã được bốc lên Thiên Đàng và được nghe thấy những tiếng nói mà người thường không có thể cũng không được phép phát ra..." (2Co 12,1-6). Và chúng ta cũng nhớ đến chuyện thánh Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên. Khi bị hành hình, tuy chưa chết nhưng ngài nhìn lên trời và thấy thị kiến, Ngài la to: “Tôi thấy Con Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa”. Cũng chính vì làm chứng cho sự thật như thế. Stêphanô bị dân Do Thái cho là phạm thượng và ném đá ông cho đến chết. Tất cả những điều trên giúp ta xác tín thêm về chân lý đời sau mà Chúa Giêsu mạc khải trong bài Tin Mừng hôm nay: “Những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau... họ không thể chết nữa, vì họ được ngang hàng với thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, bởi đã được sống lại.” (Lc 20, 34-36). Niềm tin về sự sống lại, về thưởng phạt đời sau không cho phép chúng ta thờ ơ với vận mạng đời đời của mình. Chúa Giêsu nhiều lần nhắc bảo, chỉ dạy chúng ta về điều này. Ngài dạy hãy vào qua cửa hẹp để vào Nước Thiên Chúa; được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì. Xin cho chúng ta biết xây dựng đời sau bằng chính đời này, biết dùng của cải đời này để mua nước thiên đàng mai sau. Nói cách khác hơn, xin cho chúng ta sống xứng đáng là con cái Chúa, để đáng được hưởng hạnh phúc với Ngài. 10. Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ "Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa" hay "vì Chúa." (Lc 20, 37-38) Augustine nói rất đúng: Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người để từng phút giây "hướng về Ngài". Quả thật, Thiên Chúa trao ban sự Thiện tốt hảo, kể cả chính mình cho con người để con người được sống. Cái chết không là một phần kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa: "Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu" (Kn 1, 13-14). Do tội, sự chết đã du nhập vào trong tạo dựng, Thánh Phaolô nói: "Nọc của sự chết là Tội, mãnh lực của Tội là Lề luật" (1Cr 15, 56), đúng là tội lỗi sinh ra sự chết vì sự chết cắt đứt mối liên hệ với Đấng Hằng Sống làm ra sự sống. Nhưng "Đội ơn Thiên Chúa, Đấng đã ban toàn thắng cho ta nhờ Chúa chúng ta, Đức Yêsu Kitô!" (1 Cr 15, 57). Vâng, vinh quang cho Đức Giêsu Chúa chúng ta, Đấng đã chiến thắng kẻ thù trên trần gian! Lời Hằng Sống đã kết thân với phận người, được đánh dấu bằng cái chết, để chiến thắng sự chết vào buổi sáng Phục Sinh. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa đã xuống đầy lòng chúng ta, những người chịu phép Rửa tội, ngõ hầu chiến thắng của Chúa Kitô Phục sinh hiện diện trong đời ta. Đức Kitô đã phục sinh, sự chết không làm gì được Ngài nữa. Nên "nếu ta sống, chính cho Chúa mà ta sống; và nếu ta chết, thì chính cho Chúa mà ta chết. Vậy dù sống, dù chết, ta vẫn thuộc về Chúa," (Rm 14, 8 ). Làm sao không ngạc nhiên cùng với Thánh Phaolô kêu lên: "Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?" ( 1Cr 15, 55 ) Đó là lý do tại sao "những người được coi là xứng đáng lãnh phần thưởng trong thế giới mai ngày và sự sống lại từ cõi chết, nghĩa là những người đã được rửa tội, không thể chết nữa: họ là con cái Thiên Chúa, thừa hưởng sự sống lại." Tất nhiên, chúng ta không thể tưởng tượng được sự viên mãn ở đời sau sẽ ra sao, các thiên thần gợi ý cho thấy một cuộc sống hoàn toàn dành cho việc ngợi khen Chúa, trong sự hiệp thông hoàn hảo và tạ ơn muôn đời. Vì sự chết sẽ không làm gì được nữa, không cần thiết để đảm bảo sự sống còn của muôn loài: hôn nhân như một tổ chức để duy trì cuộc sống không có lý do để tồn tại nữa. Chúng ta sống trong một mối quan hệ tình yêu hoàn hảo với Thiên Chúa và với nhau, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần. Như thế chúng ta sẽ hiểu câu trả lời của Chúa Giêsu cho phái Sađốc: "Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại". (Lc 20, 34-36) Câu trả lời của Chúa Giêsu trước vấn nạn kẻ chết sống lại của nhóm Sađốc cho thấy: Cái nhìn của họ về cuộc sống đời sau còn quá hẹp hòi. Họ không hiểu ý nghĩa của sự phục sinh hàm chứa trong câu Thánh Kinh: Thiên Chúa là Chúa các tổ phụ. Người là Thiên Chúa của kẻ sống (x. Lc 20, 37-38). Nếu tin Thiên Chúa hằng hữu thì phải tin con người có cuộc sống vĩnh cửu. Họ không chấp nhận sự kiện con người sẽ sống lại là vì họ không chịu tìm hiểu Kinh Thánh. Đó là điểm đáng trách của họ. Họ không biết vì không chịu tìm hiểu và xin Chúa soi sang. Ước gì các cặp vợ chồng đừng có lo lắng: vì tình yêu đích thực của chúng ta trong cuộc sống hay chết này không chỉ bảo toàn nhưng biến đổi: vợ chồng nhận biết Thiên Chúa trong ánh sáng của tình yêu liên kết họ với nhau cách hoàn toàn trong một nụ hôn vĩnh cửu. Hôn nhân không kết thúc với cái chết, nhưng biến đổi. Chúa chúng ta làm mất đi tất cả những hạn chế đặc trưng của sự sống trên trái đất. Tương tự như thế, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái hoặc giữa bạn bè với nhau sẽ không bị quên lãng. Nhưng nói rằng hôn nhân trần thế là một kinh nghiệm tiêu cực, hiểu lầm và đau khổ. Cái chết không cắt đứt các mối liên hệ có còn là lý do để sợ hãi nữa không? Không, bởi vượt qua thời gian vào cõi đời đời, cái xấu sẽ biến mất chỉ còn cái tốt. Tình yêu hiệp nhất họ với nhau, ngay cả khi nó chỉ kéo dài một thời gian ngắn, thấy phát triển đầy đủ, trong khi các khuyết điểm, hiểu lầm, đau khổ mà họ đã gây ra cho nhau sẽ tan biến. Nhiều cặp vợ chồng sẽ được trải nghiệm tình yêu đích thực giữa họ với tình yêu, niềm vui và sự viên mãn của hiệp thông mà họ đã không được biết đến trên trái đất cho đến khi họ được đoàn tụ "trong Thiên Chúa", vì Ngài sẽ hiểu tất cả, người ta sẽ bảo đảm tất cả, tha thứ tất cả. Vậy, nói gì về những người đã lập gia đình cách hợp pháp với nhiều người như góa vợ và góa chồng rồi tái hôn? (Cụ thể trường hợp phái Sađốc giới thiệu về Chúa Giêsu, bảy anh em đã liên tục kết hôn với cùng một người phụ nữ). Đối với họ là bằng nhau, lặp đi lặp lại cùng một điều: đó là tình yêu đích thực và món quà mỗi cặp vợ chồng, khách quan tất cả đều tốt, Thiên Chúa sẽ không xóa nhòa nhưng hoàn tất nó ở trên trời. Trong Thiên Chúa sẽ không có sự cạnh tranh hay ghen tuông: những điều không thuộc về tình yêu đích thực, hay dưới ách thống trị do hậu quả của tội lỗi, sẽ không tồn tại ở trên trời. Tóm lại có "một cuộc sống khác" đang chờ đợi chúng ta, như Đức Giêsu nói: "Họ là con cái Thiên Chúa". Đối với Chúa Giêsu chắc chắn rằng một vài lời nói lên tất cả, bởi vì đối với Ngài không có hạnh phúc lớn hơn: là con cái Thiên Chúa được chia sẻ trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa. Sống, yêu, ca tụng, vui mừng... tất cả những động từ này sẽ đề cập đến thực tế duy nhất tồn tại ở nơi Thiên Chúa, những người cuối cùng sẽ là "tất cả trong mọi sự"; "Bởi lòng yêu mến Người đã tiền định cho ta được phúc làm con, nhờ Đức Yêsu Kitô, và vì Người, chiếu theo nhã ý của thánh chỉ Người,"(Ep 1, 5 ). Lạy Chúa, "Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!" (Tv 16). Amen. 11. Tuyên xưng đức tin vào sự sống đời sau--Lm. Đan Vinh I. HỌC LỜI CHÚA Ý CHÍNH: Những người phái Xa-đốc không tin có sự sống lại sau này, nên khi nghe Đức Giêsu giảng về mầu nhiệm kẻ chết sống lại, họ đã tìm cách phi bác giáo lý ấy qua một câu chuyện giả tưởng về bảy anh em nhà kia theo luật Thế Huynh của Mô-sê đã tiếp nối nhau lấy cùng một người đàn bà và đều chết mà không có con. Từ đó họ đặt vấn đề: Nếu có chuyện kẻ chết sống lại thì người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy anh em? Đức Giêsu đã dùng Kinh Thánh để chứng minh có cuộc sống vĩnh hằng sau đời tạm này, và còn cho biết cuộc sống ấy như thế nào. CHÚ THÍCH: - C 27-28: + Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc: Đây là một số người thuộc hàng tư tế phục vụ Đền thờ, là những người không tin có sự sống lại cũng như không tin có đời sau, đang khi người Pha-ri-sêu thì tin kẻ chết sẽ sống lai (x. Cv 23,8), dựa vào lời sấm của ngôn sứ Đa-ni-en như sau: "Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ. Những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao." (x. Đn 12,2-3). Còn Đức Giêsu luôn khẳng định giáo lý về mầu nhiệm kẻ chết sống lại đối lập với phái Xa-đốc, nên phái này đã đến nêu thắc mắc nhằm phi bác giáo lý kẻ chết sống lại của Đức Giêsu và các người Biệt phái. + Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều Luật này...: Nhằm chế diễu giáo lý về sự sống lại, nhóm Xa-đốc đã trưng ra điều luật "Thế huynh" của Mô-sê nội dung như sau: Nếu người anh lấy vợ mà chết không con, thì em trai của anh ta phải lấy bà chị dâu làm vợ. Đứa con sinh ra đầu tiên sẽ được Luật pháp công nhận là con của người anh đã chết, để cho người anh có con cái nối dòng (x. Đnl 25,5). - C 29-33: + Vậy nhà kia có bảy anh em trai...: Nhóm này đưa ra câu chuyện giả định chưa từng xảy ra. Sai lầm của nhóm Xa-đốc là đã quan niệm rằng khi sống lại thì người ta cũng sẽ sống y như khi còn sống ở trần gian. Nghĩa là hai người đã là vợ chồng thì khi sống lại sẽ vẫn sống đời vợ chồng với nhau. - C 34-36: + Con cái đời này cưới vợ lấy chồng: "Con cái đời này" là những người thuộc về trần gian. Câu này có nghĩa là: Vì sự sống của con người ở trần gian có sinh có tử, nên người ta cần phải lấy vợ lấy chồng để sinh con cái nối dòng. + "Nhưng những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết": Câu này chỉ nhấn mạnh đến việc kẻ lành sống lại để được hưởng vinh quang, và không đề cập đến số phận của kẻ dữ. Thực ra không chỉ những người được Thiên Chúa tuyển chọn và xét xứng đáng mới được sống lại, nhưng là tất cả mọi người: tội lỗi cũng như công chính, đều được sống lại, như thánh Phao-lô đã đề cập trong sách Công Vụ như sau: "Tôi đặt nơi Thiên Chúa niềm hy vọng này là: người lành kẻ dữ sẽ sống lại" (Cv 24,15; x Ga 5,28-29; Mt 25,34-45). + Thì không cưới vợ, cũng chẳng lấy chồng: Họ không dựng vợ gả chồng, một là vì thân xác sẽ được siêu hóa không bao giờ chết và nên giống như các thiên thần; Hai là vì họ trở nên con cái của Thiên Chúa, hay con cái của sự sống lại, nghĩa là được thừa hưởng một thế giới mới và được sự sống mới từ nơi Thiên Chúa (x. Ep 1,5; Rm 8,18-21). - C 37-38: + Còn vấn đề kẻ chết trỗi dậy...: Đức Giêsu đã dựa vào Thánh kinh để chứng minh có sự sống lại của những kẻ đã chết. Người nêu ra một đoạn trong sách Xuất hành: Khi hiện ra với Mô-sê trong bụi gai đang cháy, Thiên Chúa đã tự xưng là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp (x. Xh 3,6). + Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống: Các Tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp dù đã chết, nhưng qua câu nói với Mô-sê, Thiên Chúa cho biết các vị ấy hiện vẫn đang sống với Chúa. CÂU HỎI: 1) Trong hai nhóm Pha-ri-sêu va Xa-đốc, nhóm nào tin xác lòai người ngày tận thế sẽ sống lại, nhóm nào không tin? 2) Luật "Thế huynh" của Mô-sê quy định thế nào về việc kết hôn giữa em trai với chị dâu? 3) Phải chăng chỉ những người lành thánh mới được sống lại vào ngày tận thế, còn những kẻ tội lỗi sẽ chết luôn và không bao giờ sống lại? 4) Đức Giêsu đã dựa vào bằng chứng nào để khẳng định mọi người sẽ sống lại trong ngày tận thế? II. SỐNG LỜI CHÚA 1. LỜI CHÚA: "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống" (Lc 20,38). 2. CÂU CHUYỆN: - HÌNH ẢNH MINH HỌA VỀ CÁI CHẾT: Đê-Vít Ma-Cớt (David Marcus) là một viên sĩ quan của quân đội Ít-ra-en đã chết trận vào tháng 6 năm 1948. Người ta đã tìm thấy một cuốn nhật ký, trong đó ông đã ghi lại cảm nghĩ của ông về cái chết có thể xảy ra với ông như sau: "Tôi đang đứng trên một bến cảng ở bờ biển. Trước mặt tôi là một con tàu vừa trương buồm chuẩn bị ra khơi. Con tàu trông mới hùng vĩ và đẹp làm sao! Tôi đứng nhìn theo nó cho đến khi nó chỉ còn là một vệt trắng ở đường chân trời. Lúc đó, có một người bạn đứng cạnh tôi nói to lên rằng: "Xem kìa, con tàu đã biến mất rồi!". Nhưng thực ra nó đâu có biến mất. Nó vẫn còn ở đó với chiếc buồm màu trắng và thân tàu to lớn đúng như kích thước khi tôi nhìn thấy nó đậu ở bến cảng. Hiện giờ nó đang trên đường đi đến một nơi đã định trước. Kích thước con tàu chỉ nhỏ dần đi trong mắt của tôi và cuối cùng đã biến mất khỏi tầm nhìn hạn hẹp của tôi mà thôi. Rồi ít ngày sau, con tàu đó sẽ tới một bến cảng mới. Tại nơi nó sắp cập bến lại vang lên tiếng nói đầy vui mừng của những người đang chờ đón người thân: "Ồ con tàu chúng ta chờ đợi đã đến rồi kìa!". Con tàu đó chính là hình ảnh cái chết của mỗi người chúng ta". - CẢM NGHIỆM VỀ THẾ GIỚI ĐỜI SAU: Từ sau khi quả bom nguyên tử ném xuống thành phố Na-ga-sa-ki của Nhật Bản, bác sĩ TA-KA-SHI NA-GAI (1908-1951) đã trở thành một nhân vật nổi tiếng nhờ sự tận tâm và tấm lòng hy sinh cao cả phục vụ các nạn nhân bị nhiễm phóng xạ nguyên tử của ông. Sau khi ông chết, người ta đã tìm thấy mấy dòng tâm sự ông để lại, cho biết lý do tại sao từ một người vô thần ông đã trở thành một người tín hữu có đức tin mạnh vào Thiên Chúa như sau: "Trong kỳ nghỉ Xuân, lúc đó tôi học hết năm thứ hai đại học y khoa, mẹ tôi bị trúng phong. Tôi hối hả chạy đến đầu giường của mẹ tôi khi ấy chỉ còn một chút hơi thở. Mẹ tôi trừng trừng mở mắt nhìn tôi thở hắt ra. Cái nhìn cuối cùng của cặp mắt bà mẹ đã sinh ra, đã giáo dục và đã thương yêu tôi đến cùng. Cặp mắt này nói cho tôi một cách rõ ràng: Sau khi chết, bà vẫn luôn ở bên tôi là Takashi yêu dấu của bà. Tôi nhìn vào trong cặp mắt đó. Tôi, một con người vốn không tin có linh hồn, tự nhiên đã cảm thấy linh hồn mẹ tôi đang có đó; linh hồn mẹ tôi khi chết đã lìa khỏi thân xác nhưng vẫn tồn tại mãi mãi". Rồi Na-gai viết thêm: "Từ đó, con người của tôi đã thay đổi hẳn: Dù tôi đã cố gắng hết sức nhưng cũng không thể khiến tôi tin rằng con người mẹ tôi đã hoàn toàn bị tiêu diệt... Con mắt tôi lần đầu tiên đã mở ra và nhìn thấy thế giới siêu hình". 3. SUY NIỆM: Thực tế cho thấy con người ta ai cũng đều phải chết! Chết là giai đoạn cuối cùng trong bốn giai đoạn cuộc sống của mỗi người chúng ta là: Sinh- lão- bệnh- tử. Nhưng chết là gì và sau khi chết chúng ta sẽ đi đâu? Ta phải làm gì để được sống lại trong hạnh phúc vĩnh hằng đời sau? 1) Chết là gì và chết rồi con người sẽ đi đâu?: Chết là khi linh hồn lìa ra khỏi xác. Hầu hết nhân loại đều tin: chết không phải là đi vào cõi tiêu diệt, nhưng là trải qua một cuộc biến đổi từ cuộc sống vật chất trần gian sang cuộc sống vĩnh cửu đời sau được diễn tả qua câu nói: "Sinh ký tử qui" - sống chỉ là ở tạm, chết mới là đi về. Nhưng đi về đâu? Thưa là đi về với cội nguồn, về cõi vĩnh hằng với Đấng tạo thành nên mình. Riêng đối với các tín hữu là những người tin vào Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai và đi theo con đường "qua đau khổ vào trong vinh quang" của Người thì chết là trải qua cuộc biến đổi với Đức Giêsu như lời thánh Phao-lô dạy: "Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người" (2 Tm 2,11). Thánh Au-gút-ti-nô cũng nói lên niềm khát mong được nghỉ yên trong Chúa ở đời sau qua lời cầu nguyện: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, nên tâm hồn con vẫn luôn khắc khoải mãi cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa". Còn thánh nữ Tê-rê-sa Hài đồng Giêsu lúc sắp chết cũng đã nói với các chị em đứng chung quanh về niềm tin của mình vào một cuộc sống vĩnh hằng như sau: "Em không chết đâu, em sắp đi vào cõi sống". 2) Hai lập trường đối lập về mầu nhiệm kẻ chết sống lại: - Trong thời Đức Giêsu, các người Biệt phái (Pha-ri-sêu) tin rằng: ngoài cuộc sống đời này còn một cuộc sống vĩnh hằng ở đời sau. Còn phái Xa-đốc gồm các tư tế Đền thờ đã không tin có cuộc sống ở đời sau như vậy. Do đó khi nghe Đức Giêsu giảng về sự kẻ chết sống lại, họ đã phi bác bằng việc đặt ra một câu chuyện giả tưởng như sau: Nhà kia có bảy anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con. Theo luật "Thế huynh" của Mô-sê, người thứ hai phải lấy người vợ góa đó, nhưng rồi người này cũng chết không con. Tới người thứ ba, tư, năm, sáu, bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không để lại một người con nào. Vậy nếu có sự sống lại thì người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy anh em? Mục đích của phái Xa-đốc khi đưa ra câu chuyện này là để chứng minh niềm tin vào sự sống lại là vô lý. Vì nếu còn có một cuộc sống ở đời sau như vậy thì chẳng lẽ người đàn bà ấy lại là vợ của cả bảy anh em nhà đó hay sao? - Để trả lời, trước hết Đức Giêsu cho biết tình trạng người ta sau khi sống lại sẽ không cưới vợ lấy chồng. Cuộc sống của họ sẽ hoàn toàn thanh khiết như "các thiên thần". Họ sẽ trở thành "con cái của Thiên Chúa" (Lc 20,34-36). Tiếp đến Đức Giêsu xác nhận sự kẻ chết sống lại là điều chắc chắn vì dựa trên Lời Chúa trong Thánh Kinh: Khi hiện ra với ông Mô-sê trong bụi gai cháy mãi không tàn, Đức Chúa đã tự xưng mình như sau: "Ta là Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, I-sa-ác và Gia-cóp" (Xh 3,6). Câu này hàm ý Thiên Chúa là Đấng hằng sống và điều khiển thế giới người sống. Các tổ phụ dân Do Thái dù đã chết nhưng linh hồn các ngài vẫn đang sống và thân xác các ngài sau này cũng sẽ sống lại. 3) Niềm tin của người tín hữu về cuộc sống đời sau: Khi đọc kinh Tin kính, các tín hữu tuyên xưng đức tin vào mầu nhiệm này như sau: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Thánh Phao-lô cũng đã khẳng định về một cuộc sống mới trong Đức Kitô: "Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu" (1 Cr 15,19-20). Cuộc sống của chúng ta nơi trần gian là cuộc hành trình về quê trời. Cuộc sống ấy sẽ ra sao tùy thuộc vào cuộc sống hiện tại của chúng ta trên trần gian theo nguyên tắc: "gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy". 4) Thể hiện đức tin vào mầu nhiệm này thế nào?: - Một là không nên sợ chết: Những người không có đức tin sẽ rất sợ chết vì cho rằng chết đi là hết. Nếu người tín hữu sợ chết là tự mâu thuẫn với niềm tin của mình về một cuộc sống vĩnh hằng sau khi chết. Sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại về cái chết anh dũng của Phó tế Tê-pha-nô tử đạo như sau: "Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: "Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa" (Cv 7,55-56). - Hai là phải chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu: Nếu một người chỉ lo kiếm tiền rồi lại tim cách hưởng thụ các nhu cầu vật chất thể xác thì sẽ chỉ gặt hái được thứ hạnh phúc bọt bèo chóng qua. Muốn đạt được hạnh phúc lâu dài cần phải có đức tin và sống phù hợp với đức tin ấy như câu ngạn ngữ tây phương sau đây: "Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một ngày, hãy mua cho mình một một bộ quần áo mới. Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một tuần, hãy giết thịt một con heo. Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một năm, hãy lập gia đình với người mình yêu. Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một đời, hãy sống một cuộc sống lương thiện. Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc muôn đời, hãy sống như một tín hữu tốt lành". Người tín hữu tốt sẽ luôn sống giới răn mến Chúa yêu người theo lời Chúa dạy trong "Tám Mối Phúc Thật" (x. Mt 5,3-12). Thánh Phao-lô cũng cho biết có sự thưởng phạt người lành kẻ dữ trong ngày tận thế: "Ngày đó Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ đã làm" (Rm 2,6). - Ba là năng cầu nguyện cho các người thân qua đời: Hằng năm, Hội thánh dành riêng tháng Mười Một để khuyến khích các tín hữu cầu nguyện cho ông bà cha mẹ đã qua đời. Đây cũng là cơ hội giúp chúng ta suy nghĩ về bốn sự sau là: sự chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Chính sự chết dạy cho chúng ta biết phải sống như thế nào. Niềm tin vào Thiên đàng hay hỏa ngục sẽ giúp chúng ta tránh những đam mê hạnh phúc giả tạo đời này và động viên chúng ta can đảm chịu đựng những đau khổ gặp phải để đền tội và đi con đường "Qua đau khổ vào trong vinh quang" để về quê trời đời sau. Trong tháng này, khi làm các việc lành cầu nguyện cho các linh hồn là chúng ta thể hiện niềm tin vào mầu nhiệm kẻ chết sống lại và cuộc sống vĩnh hằng đời sau. 4. THẢO LUẬN: Ngày nay nhiều người chỉ biết đi tìm thứ hạnh phúc bọt bèo chóng qua trong những thú vui nhục dục và những đam mê bất chính. Bạn sẽ làm gì giúp bạn bè và người thân nhận ra tình trạng sa đọa của họ để hồi tâm sám hối và sống cuộc đời bác ái yêu thương để tuyên xưng đức tin cụ thể vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau? 5. NGUYỆN CẦU: - Lạy Chúa Giêsu. Khi đọc kinh Tin kính, tuy miệng con tuyên xưng mầu nhiệm kẻ chết sống lại và tin có sự sống đời sau, nhưng trong thực hành, con lại thường lỗi đức công bình khi có cơ hội, gây ra bao thiệt hại về vật chất cũng như tinh thần cho tha nhân, mà không nghĩ đến việc con sẽ phải đền trả khi ra trước tòa Chúa phán xét sau này. Dường như đức tin của con mới chỉ là thứ đức tin lý thuyết và không đủ mạnh để ngăn cản con khỏi sống ích kỷ và tội lỗi. Trong Tin mừng hôm nay, Chính Chúa đã khẳng định rằng: Thân xác lòai người sau này sẽ sống lại. Khi ấy người ta sẽ không còn cưới vợ lấy chồng, không còn bon chen kiếm sống như ở trần gian, nhưng mọi người sẽ trở nên giống như các thiên thần của Thiên Chúa và được sống trong hạnh phúc muôn đời. - Lạy Chúa, con muốn rằng: ngay từ bây giờ con sẽ thuộc trọn về Chúa. Con xin dâng lên Chúa tất cả tâm tư, cùng những niềm vui nỗi buồn và những ước vọng của con. Xin Chúa thương nhận và ban xuống dồi dào hồng ân cứu độ cho con. Xin cho con luôn phó thác cuộc sống trong tay Chúa và sẵn sàng đón nhận mọi thử thách, với niềm tin rằng chúng đều hữu ích cho phần rỗi đời đời của con. X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con. Ngày 5 tháng 11 Năm 2022 Bài liên quan CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY Năm C CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY-C 03.04.2022 – CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY Năm C CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT LỄ LÁ- C 17.04.2022 - CHÚA NHẬT PHỤC SINH Năm C