Chúa Nhật 20.11.2022 - Chúa Nhật 34 Thường Niên - Năm C - Lễ Chúa Kitô Vua BÀI ĐỌC I: 2 Sm 5, 1-3 "Họ xức dầu phong Đavít làm vua Israel". Bài trích sách Samuel quyển thứ hai. Trong những ngày ấy, toàn thể chi tộc Israel đến cùng Đavít tại Hebron mà nói rằng: "Đây chúng tôi là cốt nhục của ngài. Nhưng từ trước đến giờ, khi Saolê đang làm vua chúng tôi, thì chính ngài đã dẫn dắt Israel. Và Chúa đã nói với ngài rằng: 'Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel dân Ta, và sẽ trở nên thủ lãnh Israel'". Vậy tất cả các vị kỳ lão Israel đều đến tìm nhà vua tại Hebron, và tại đó, vua Đavít ký kết với họ một giao ước trước mặt Chúa. Họ liền xức dầu phong Đavít làm vua Israel. Đó là lời Chúa. ĐÁP CA: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5 Đáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa"(c. 1). 1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi. 2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên. 3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Đavít. BÀI ĐỌC II: Cl 1, 12-20 "Người đã đem chúng ta về Nước Con yêu dấu của Người". Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê. Anh em thân mến, chúng ta hãy cảm tạ Chúa Cha, Đấng đã làm cho anh em xứng đáng lãnh phần gia nghiệp các thánh trong ánh sáng. Chúa đã cứu chúng ta thoát khỏi quyền lực u tối, đem chúng ta về nước Con yêu dấu của Chúa, trong Người chúng ta được ơn cứu rỗi nhờ máu Người, và được ơn tha tội. Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi tạo vật; vì trong Người, muôn loài trên trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình, dù là các Bệ thần hay Quản thần, dù là Chủ thần hay Quyền thần: Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người. Và Người có trước mọi loài, và mọi loài tồn tại trong Người. Người là đầu thân thể tức là Hội thánh, là nguyên thuỷ và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài. Vì chưng Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất. Đó là lời Chúa. ALLELUIA: Mc 11, 10 All. All. - Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Đavid tổ phụ chúng ta đã đến. - All. PHÚC ÂM: Lc 23, 35-43 "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu mà rằng: "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: "Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". Đối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". Đó là lời Chúa. Các bài suy niệm LỄ CHÚA KITÔ VUA – C Lời Chúa: 2Sm 5, 1-3; Cl. 1, 12-20; Lc. 23, 35-43 1. Xin nhớ đến tôi--‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ. Suy Niệm "Đáng lẽ tôi đã được rửa tội từ lâu, nhưng vì vấn đề gia đình và làng xóm nên chưa được. Dù vậy tôi rất ư là kitô hữu." Đó là lời của nhạc sĩ Văn Cao trong một cuộc gặp gỡ riêng tư năm 1990. Cụ đã sung sướng khoe với mọi người như thế, và thẳng thắn nhìn nhận: "Chúng tôi đã được đào tạo, nhờ đức tin và âm nhạc kitô giáo." "Chúng tôi" ở đây muốn ám chỉ giới trí thức và văn nghệ sĩ thế hệ của cụ. Đức tin đã thấm vào con người tài hoa ấy, và làm sản sinh những tác phẩm bất hủ. "Nếu tôi không hiểu Halêluia là gì, thì đã chẳng có bài "Làng tôi", cụ bảo vậy. Chẳng ai ngờ Văn Cao lại là con người say mê Giêsu, mà là Giêsu trên thánh giá. Từ năm 1954, cụ vẫn treo một thánh giá trước mặt. Giêsu trần trụi, Giêsu không còn gì. Nhưng đối với Văn Cao, có ai hơn Giêsu? Bài Tin Mừng trong lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ lại đưa ta về với Chúa Giêsu trên thập giá. Chẳng lúc nào Chúa làm vua rõ bằng lúc này. "Đây là vua người Do thái", tấm bảng ghi như thế. Nhưng kiểu làm vua của Ngài thật khác thường. Không có vương miện, chỉ có vòng gai. Không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không có câu tán tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê. Bị treo trên thập giá, Đức Giêsu nghe những lời mời mọc, ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ buổi đầu. "Nếu ông là Đức Kitô thì hãy cứu lấy mình”. “Hãy xuống khỏi thập giá" (Mt 27,40). Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng hề nghĩ đến. Chính vì Ngài thật là Con của Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi thập giá như xưa Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Đền Thờ. Đức Giêsu không muốn chúng ta tin Ngài vì những màn trình diễn ngoạn mục. Ngài muốn chúng ta tin, vì Ngài đã buông mình cho Cha, đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín thác. Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, vị Vua bị đóng đinh lại hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng. "Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng." Như thế kẻ gian phi lại là người đầu tiên được ơn cứu độ nhờ cái chết thập giá của Đức Giêsu. Mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ, chúng ta muốn khước từ những thần tượng giả mạo, muốn để Ngài làm vua của vũ trụ lòng mình. Chúng ta muốn đưa Ngài đi vào mọi lãnh vực cuộc sống: văn chương, khoa học, nghệ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội... Cần có đức tin mạnh mẽ mới thấy Chúa Giêsu vẫn không ngừng lôi kéo cả thế giới về với Ngài bằng trăm ngàn nẻo đường bất ngờ, trong đó có nẻo đường của cụ Văn Cao và anh trộm lành. Gợi Ý Chia Sẻ Có người cho rằng: "Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng có nhiều tiện nghi vật chất, thì lòng đạo đức càng sa sút. Nước Chúa như bị thu hẹp lại." Bạn có đồng ý với nhận xét trên không? Làm sao để tiện nghi vật chất không làm người ta xa Chúa? Bạn đã làm gì để Nước Chúa đến với tập thể bạn đang sống như gia đình, xứ đạo, cộng đoàn, trường học, nơi làm việc? Bạn có gặp những khó khăn khi xây dựng Nước Chúa trong môi trường sống của bạn không? Cầu Nguyện Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục, nếu Chúa là vua của hơn tám trăm ngàn nữ tu, nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo, thì thế giới này sẽ đổi khác. Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ. Nếu khối bột chẳng được dậy lên, thì là vì men đã mất phẩm chất. Chúng con phải chịu trách nhiệm về sự dữ trên địa cầu, có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra. Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến, nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian. Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ, chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa, giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ, nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa, dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm. Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con, và không cho chúng con được yên ổn. Ước gì một tỉ người Công giáo chịu để Chúa chi phối đời mình và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến. Như thế vũ trụ này trở thành vũ trụ của Thiên Chúa. 2. Vương quốc Đức Kitô--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt Nghe bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ nhiều người thắc mắc: Giáo Hội có nhầm không? Ngày lễ Chúa làm Vua mà lại đọc bài tường thuật cái chết tủi nhục của Chúa. Thật khó hiểu. Ta không hiểu, vì trí ta luôn vẽ ra hình ảnh một ông Vua theo kiểu trần gian. Trong khi Chúa Giêsu đã cho biết: “Nước tôi không thuộc trần gian này” (Ga 18,36). Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy ba tính cách của Vương quốc Đức Kitô. Đó là Vương quốc của lòng hiếu thảo. Thiên Chúa muốn thiết lập Vương quốc này ngay từ buổi sơ khai. Nhưng ma quỷ phá hoại bằng cách xúi giục con người chống lại Thiên Chúa. Chúa Giêsu xuống thế để tái lập mối liên hệ Cha-Con giữa Thiên Chúa với loài người. Người đã sống như một người Con Hiếu Thảo của Đức Chúa Cha. Sống kết hiệp với Đức Chúa Cha. Trong Phúc Âm, lời đầu tiên Người nói là nói về Đức Chúa Cha: “Cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con ư?” (Lc 2,49). Lời cuối cùng của Người cũng hướng về Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Trọn cuộc đời Người luôn thi hành thánh ý Cha, cho dù có những lúc phải đổ mồ hôi máu mới bỏ được ý riêng mình. Người đã sống đến cùng tâm tình của người con hiếu thảo. Trên thập giá, Người đã hoàn tất việc thiết lập Vương quốc ban đầu theo ý định của Thiên Chúa; quy tụ những người con hiếu thảo trong nhà Cha trên trời. Đó là Vương quốc của sự tự do. Con người rời xa Thiên Chúa rơi vào vòng tay ma quỷ. Ma quỷ trói buộc con người bằng những sợi dây nô lệ: nô lệ cho danh vọng, nô lệ cho tiền bạc, nô lệ cho thú tính. Đức Giêsu xuống trần gian để giải thoát con người khỏi ách nô lệ ma quỷ. Người cứu con người khỏi mọi thứ sợ hãi. Người giải phóng ta khỏi mọi áp lực, mọi mặc cảm. Trọn đời Người nêu gương một đời sống tự do. Thoát khỏi sự ràng buộc của của cải vật chất, Người sống như một người nghèo: “Con chim có tổ, con chồn có hang, nhưng Con Người không có hòn đá gối đầu” (Mt 8,20). Người đã chống lại những cơn cám dỗ về quyền lực từ ngày đầu tiên trong sa mạc cho đến phút cuối đời trên thập giá: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy biến đá thành bánh mà ăn” (Mt 4,3). “Nếu Ông là Đức Kitô, hãy xuống khỏi thập giá, chúng tôi sẽ tin”. Rất tự do, Người đã đi vào cái chết. Chính khi bị treo trên thập giá, thân trần trụi, mất hết mọi uy tín, danh dự, Người đã phá tung hết mọi thứ xiềng xích nô lệ, khai mạc một triều đại tự do cho con người. Đó là Vương quốc của tình yêu. Chúa Giêsu xuống trần để làm chứng về tình yêu. Rao giảng, thi ân, tha thứ. Tình yêu lên đến cực điểm trong những giây phút cuối đời khi Người quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, khi Người chữa lành tai cho kẻ đến bắt Người, khi Người tha thứ cho kẻ phản bội, và nhất là khi Người cầu xin Đức Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Người. Thật là một tình yêu nguyên tuyền không hề vương chút hận thù. Một tình yêu bao la lan tới mọi góc biển chân trời. Một tình yêu cao cả đáp lại hận thù. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho Đức Chúa Cha. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Thánh giá diễn tả tình yêu tha thứ Chúa Giêsu dành cho những kẻ thù ghét Người. Cái chết trên thập giá là một cuộc chiến thắng. Chiến thắng của tâm tình hiếu thảo. Chiến thắng của sự tự do nội tâm. Chiến thắng của tình yêu. Chính trên cây thập giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi vua. Chính khi hứa cho người trộm lành vào thiên đàng, Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc của Người. Vương quốc Đức Kitô đã rộng mở chào đón tất cả mọi người. Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của người con hiếu thảo hoàn toàn vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha, hãy sống tự do, dứt bỏ mọi ràng buộc của danh, lợi, thú, hãy mở rộng trái tim yêu thương. Như thế ta mới xứng đáng trở thành công dân trong Nước Chúa. Lạy Chúa Giêsu là Vua của tâm hồn con, xin nhận con vào Vương quốc của Người. Amen. KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG 1) Đã bao giờ bạn cảm nghiệm được sự tự do hoàn toàn, không còn ham hố tiền tài, danh vọng, lạc thú chưa? Nếu có, bạn cảm thấy thế nào? 2) Hình ảnh về Vua Giêsu nghèo hèn, khiêm nhường, chịu thiệt thòi, luôn tha thứ gợi lên trong bạn tâm tình nào? 3) Tuần này bạn sẽ làm gì để Vương quốc Chúa Giêsu lan rộng tới những người chung quanh? 3. Chúa Kitô Vua--GM. Giuse Vũ Duy Thống--‘Nút Vòng Xoay’ Trên báo Tuổi Trẻ cách đây khá lâu, tôi gặp một chuyện ngắn của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, mang tựa đề “Tôi thích làm vua”, truyện kể về một đội kịch khi đã dàn dựng xong một vở xoay quanh vai chính là một ông vua. Nhưng đến lúc trình diễn, người thủ vai ông vua đã không có mặt. Đang còn lúng túng thì may sao tác giả chuyện ngắn lù lù dẫn xác tới. Bằng sức ép của tình thân người ta xếp ngay ông vào vai ông vua với lời trấn an: “Làm vua dễ lắm! Chỉ cần áo mão cân đai, trong ngai bệ vệ thị oai xong liền”. Tác giả đã làm như thế và buổi diễn được xem là thành công. Truyện chỉ có thế, nhưng qua mạch kể, dẫn tới kết luận: làm vua quá dễ và xét cho cùng, làm vua cũng có nghĩa là chẳng phải làm gì cả. Phụng vụ hôm nay cũng đặt tín hữu đối diện với một vị vua: Đức Kitô. Nhưng Người là vị Vua thế nào? Đường lối làm vua của Người có nhàn hạ không? 1. Đức Kitô khởi đầu sự nghiệp bằng việc tự hiến. Ngay từ đời đời, Đức Kitô đã là vua trên cả tạo thành, nhưng vì không muốn cho con người chỉ thấy nơi Người tự bản tính đã là vua, mà còn muốn tỏ bài cho họ hiểu để “là vua” Người phải “làm vua” nữa. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã trở thành Vua muôn vua. Dẫu là Vua Trời, Người đã chấp nhận từ bỏ tất cả để bước xuống với đời sống con người. Sự bước xuống ấy chẳng phải là một chuyến vi hành như kiểu những ông vua trong truyện “Nghìn lẻ một đêm”, ban ngày thì thét ra lửa, nhưng ban đêm lại cải trang giả dạng thường dân len lỏi vào những ngõ ngách cuộc sống để nắm bắt tình hình dân chúng, rồi bước sang ngày mới, lại áo mão nghêng ngang ra dáng đức vua oai vệ. Sự bước xuống ấy cũng chẳng phải là những chuyến du hành như những chuyến đi lại của những ông vua hiện đại luôn được bao vây bởi những vệ sĩ cận kề hoặc những fan hâm mộ cuồng nhiệt, có muốn quan sát sự tình cũng khó mà thấy sự thật. Nhưng sự bước xuống ấy là một chuyến đồng hành theo nghĩa mạnh nhất của từ ngữ này, nghĩa là Vua Trời đã làm người thực thụ giữa muôn người trần gian để đồng hành với con người trong cuộc phiêu lưu cứu độ. Từ trời cao hạ cố bước xuống với con người, chưa đủ; từ Thiên Chúa tự nguyện bước xuống làm người vì chúng ta, cũng chưa đủ; từ con người vô danh tiểu tốt lại khiêm nhường bước xuống làm một tội nhân dẫu chẳng mang tội gì, cũng chưa đủ. Qua Phúc Âm hôm nay, người ta còn thấy Người bước xuống nữa, từ một tội nhân lại nhận vào mình cái án của tên tử tội. 2. Đức Kitô xưng vương bằng việc tận hiến. Đọc kỹ trang Tin Mừng hôm nay, người ta sẽ vô cùng sửng sốt, bởi vì hình ảnh vị vua thì quá nhạt nhòa trong khi hình ảnh của người tử tội lại thật đậm nét, đến nỗi cái chết của người ấy cũng không thể gọi là một cái chết bình thường nếu không muốn nói là “cái chết dữ”, theo ngôn ngữ Việt Nam. Thay vì triều thiên là một vòng gai, thay vì long ngai là một Thánh Giá, thay vì xa giá oai phong lẫm liệt lại chỉ là những tiếng nhục mạ thách thức của đủ mọi thành phần dân chúng. Kỳ mục ghen ghét nên nhục mạ đã đành, lính tráng liên quan gì mà phải lên tiếng, đến như anh trộm dữ chết đến nơi rồi mà vẫn không hết cay xè cà cuống độc mồm độc miệng. Nhưng người ta càng sửng sốt hơn nữa khi biết rằng người tử tội ấy là Chúa Kitô, và cái chết của Người chính là đỉnh cao tận hiến, đi đến cùng trong lựa chọn hiến thân cho loài người. Nếu sinh thời Người đã nói “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến thân vì bạn hữu” thì câu nói đó trước hết đã ứng nghiệm nơi Người. Người chết thay cho nhân loại mà Người hằng yêu mến, Người chết cho họ được sống. Nhưng chính lúc Người chết lại là lúc Người tỏ mình là Vua như hàng chữ trên Thánh Giá đã ghi rõ. Người làm Vua bằng con đường tận hiến. Như hạt lúa phải thối đi mới sinh nhiều bông hạt; như cỗ máy phải chấp nhận hao mòn đi mới phát sinh công suất; như bông hoa phải chịu ngắt đi mới trang hoàng đẹp bàn thờ; và cũng như cây nến phải chấp nhận hao mòn đi mới có thể đem cho ngày lễ ánh sáng lung linh. 3. Chúa Kitô cai trị bằng thánh hiến. Nếu toàn cảnh Phúc Âm hôm nay là một bầu khí ảm đạm thì câu kết thúc lại là một cảnh hoàn toàn khác. Từ đỉnh cao Thập Giá, Chúa Kitô hứa Thiên Đàng cho anh trộm lành. Trong lời hứa, người ta đã thấy tỏ hiện vương quyền trời cao; trong cách hứa, người ta đã thấy vinh quang rạng ngời vương quốc; và vượt trên tất cả, trong tương quan của người trao và người nhận lời hứa, là sáng lên dung mạo của vị Vua bao dung thánh hiến tất cả để đặt vào tình trạnh sống mới. “Hôm nay, anh sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”. Trong bảy lời Chúa Giêsu phán ra từ Thập Giá, đây là lời oai phong nhất, không là lời của người tử tội, mà là lời của một vị Vua quyền uy trong Vương quốc của Người là Thiên đàng. Đây cũng là lời đậm màu cứu độ nhất vì anh trộm khi chẳng còn hy vọng nào khác đã biết bám víu vào Chúa Giêsu, nên anh đã nhận được ơn cứu rỗi, tức là được thánh hiến để sẵn sàng tháp tùng Người bay thẳng vào chốn Thiên Đàng không cần qua một trạm trung chuyển nào. Sướng thật. Rõ trộm chuyên nghiệp nên phút cuối cùng còn trộm được cả Thiên Chúa. Có lẽ cũng nên nói một chút về hai chữ “hôm nay” của lời hứa đặc biệt này, một chữ nhiều gợi ý, nhưng gắn liền với việc Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, nên chữ ấy cũng liên quan đến việc thánh hiến của vì Vua cứu độ. Ngay từ lúc Chúa Giêsu chịu chết, Vương quốc Thiên Đàng của Người đã tỏ hiện, vương quyền thánh hiến của Người đã phát huy, để chữ “hôm nay” trở thành chữ hiện thực muôn đời của tấm lòng vị Vua Cứu Thế. Qua việc thánh hiến lòng cậy trông của ông trộm lành, Đức Kitô đã khẳng định đường lối làm vua của Người mãi mãi. Người thánh hiến trọn vẹn mỗi người và mọi người, như kiểu nói của thánh Phaolô: “Người thâu họp tất cả trong một đầu mối chính là Người, để mà dâng lên Chúa Cha”. Tóm lại, Đức Kitô là một vị Vua rất khác lạ, Người làm tất cả chỉ vì muốn cứu độ muôn người: Người tự hiến cúi xuống với con người; Người tận hiến mạng sống cho con người, và Người thánh hiến để con người được sống muôn đời với Người trong vương quốc vĩnh cửu. Vấn đề còn lại là hãy tôn vương Chúa Kitô ngay trong cuộc sống hôm nay. Có lần đến một xứ đạo vùng Hố Nai dâng Thánh Lễ, tôi không xác định được phương hướng, phải nhờ một bác tài xế chỉ cho. Bác bảo: tới ngã ba thấy tượng Chúa Kitô giang tay, hãy đi về phía tay phải, sẽ gặp địa chỉ muốn tìm. Rõ ràng chỉ là một câu nói, nhưng đầy gợi ý: hãy đi về phía tay phải Chúa Kitô bằng một cuộc sống tốt lành, người ta sẽ gặp được địa chỉ mong ước, đó là Nước Chúa Kitô, là quê hương hạnh phúc. 4. Vương quốc vĩnh cửu--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên Vua là người đứng đầu một vương quốc, là người có quyền lực trong mọi lãnh vực và được người ta tôn sùng. Tuy vậy, lịch sử cũng chứng kiến có những vị vua bị lật đổ vì nhiều lý do. Có thể do chính bản thân vị vua thiếu tài thiếu đức, nhưng cũng có thể do thay đổi chế độ, những người “chiến thắng” muốn phế bỏ một hệ thống chính trị mà họ coi như lỗi thời. Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội suy tôn Chúa Giêsu với tước hiệu “Vua vũ trụ”. Người là Vua không giống như một vị tổng thống do cử tri bỏ phiếu bầu ra, cũng không giống một vị vua được phong vương sau khi đã chiễm lĩnh một vùng lãnh thổ. Chính Thiên Chúa Cha đã ban cho Người “mọi quyền năng trên trời dưới đất” (Mt 28, 18). Khi nghe nói đến Đức Giêsu với tước hiệu “Vua vũ trụ”, nhiều người trong chúng ta cũng liên tưởng ngay đến những vị vua mặc hoàng bào, ngồi trên ngai, có triều thần hầu cận với biết bao cung nữ cung phụng. Trong khi đó, Phụng vụ lại giới thiệu cho chúng ta một vị vua hoàn toàn khác: bị đánh bầm dập đến nỗi người thân không nhận ra, trần trụi không một mảnh vải che thân và bị hành hình treo trên thập giá. Thập giá là một hình khổ làm cho người bị xử vừa đau đớn vừa nhục nhã. Vị vua Giêsu không có lễ phong vương huy hoàng. Vị vua ấy đã tự nguyện hy sinh, bị hạ xuống tận cùng cùng nhuốc nhơ đau khổ. Chính trong hoàn cảnh này, Người được tôn làm người đứng đầu một vương quốc, mà người tôn vinh ấy là một người trộm cũng bị kết án tử hình và bị thi hành án cùng với Người: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Qua lời cầu xin này, người kẻ trộm nhận ra vương quyền và vương quốc của Chúa. Xuyên qua một con người bị hành hình, anh ta nhận ra Người là Vua, là chủ một vương quốc và có quyền năng đón nhận những công dân mới vào vương quốc đó. Trong khi các thủ lãnh và một số người Do Thái muốn phế bỏ Đức Giêsu, vì họ coi Người như một tên phản loạn nhìn theo khía cạnh tôn giáo cũng như xã hội, thì một người trộm cùng hoàn cảnh với Người lại nhận ra Người là Vua. Cũng thế, trải dài suốt bề dày của lịch sử, có những người khôn ngoan uyên bác phủ nhận giáo huấn và vương quyền của Chúa Giêsu, thì có tầng tầng lớp lớp những người bé mọn và khiêm nhường lại tôn nhận Người là Vua và là lý tưởng của cuộc đời, và nhờ đó họ tìm thấy sự bình an hạnh phúc. Hãy nhìn hai người trộm cùng bị hành hình với Chúa Giêsu: một người tôn nhận vương quyền của Chúa; người kia lại phủ nhận quyền năng của Người. Nói như thế không có nghĩa là trong số những người tôn nhận Vương quyền của Đức Giêsu chỉ những người bình dân thất học. Không phải vậy, có rất nhiều nhà khoa học, những học giả trong nhiều lãnh vực khác nhau đã “nhìn thấy Thiên Chúa” qua những công trình nghiên cứu, và họ đã trở nên những tín hữu đạo đức, thánh thiện. Vị Vua Giêsu hạ mình sâu thẳm đến mức “hủy mình ra không” để cứu vớt những con người đắm chìm trong tội lỗi. Người chuốc lấy đau khổ của nhân loại để nhân loại được hạnh phúc. Người mang lấy tội lỗi nhân gian để nhân gian được tha thứ. Đó chính là nét đặc thù làm cho vị Vua Giêsu hoàn toàn khác với các vua chúa trần gian. “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tuyên bố điều ấy. Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu khẳng định Người là Thiên Chúa cao cả và quyền năng. Mặc dù có bị đánh bầm dập, trần trụi, đau khổ, Người vẫn là Thiên Chúa và vẫn có quyền chấp nhận một người, dù nhiều tội lỗi, trở thành công dân của vương quốc vĩnh cửu. Thiên Chúa là Đấng vô hình. Con người không thể thấy Ngài. Tuy vậy, qua Đức Giêsu, con người có thể nhận ra khuôn mặt bao dung và đầy lòng thương xót của Thiên Chúa. Thánh Phaolô khẳng định với chúng ta: “Thánh Tử (Đức Giêsu) là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành, trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình”. Qua Đức Giêsu, con người có thể “chạm tới” tình thương Thiên Chúa và nhận ra Ngài đang hiện diện. Bài đọc I giới thiệu cho chúng ta vua Đavít, là một gương mặt điển hình trong hàng ngũ các vua của lịch sử Do Thái. Đavít cũng là hình ảnh của vị Vua Giêsu trong tương lai. Nếu Đavít đã đi vào lịch sử Do Thái bằng những chiến công hiển hách tiêu diệt quân thù, và một đời sống đạo đức cầu nguyện gương mẫu, thì vị Vua Giêsu lại hy sinh mạng sống để cứu chuộc con người, phục hồi phẩm giá của họ và mặc cho họ sự thánh thiện cao sang. Chúa Giêsu không phải là một vị vua của quá khứ, cũng không phải là vị vua tương lai, mà là vị vua của hiện tại đang cai trị hoàn vũ này và cai trị các tâm hồn bằng tình yêu thương. Người mời gọi chúng ta hãy đón nhận vương quyền của Người để tâm hồn được thanh thản, và để gánh nặng cuộc đời trở nên nhẹ nhàng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). “Mang lấy ách” là một kiểu nói diễn tả sự đón nhận, tâm tình yêu mến và thiện chí noi gương bắt chước một bậc thầy. Tạ ơn Chúa cho chúng ta trở nên công dân của Vương quốc vĩnh cửu, qua Bí tích Thanh tẩy. Xin cho chúng ta biết trân trọng danh hiệu cao quý ấy, đồng thời cố gắng rập khuôn đời mình theo gương Vua Giêsu, để cùng chung hưởng vinh quang với Người, như lời Người đã hứa với người trộm lành năm xưa. 5. Vị vua không ngai vàng--ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên Mặc dù có nhiều ý kiến phê phán cách dùng danh xưng “vua” để chỉ Chúa Giêsu, viện lẽ rằng danh xưng này gắn liền với xã hội phong kiến lỗi thời, Giáo Hội vẫn tiếp tục dùng tước hiệu này và tôn vinh long trọng trong ngày Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ. Chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là vua. Nhưng Ngưởi là một vị vua không có ngai vàng. Nói đúng hơn, Người không dùng ngai vàng để biểu dương quyền lực trần thế. Ngai vua của Người là một dụng cụ tử hình, là cây thập giá đã được dựng nên trên đồi Canvê. Như thế, mặc dù dùng danh xưng vua để chỉ Chúa Giêsu, thì khái niệm vua nơi Người vẫn hoàn toàn khác với một vị vua trần thế. Không phải vô tình mà thánh sử Luca nhấn mạnh đến tấm biển gắn phía trên của thập giá. Tấm biển này mang dòng chữ "Người Này Là Vua Dân Do Thái”, được viết bằng ba thứ tiếng: Hy lạp, Latinh và Do Thái. Thánh Gioan còn thêm một chi tiết: nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh gần cổng thành, nơi có đông người qua lại nên rất nhiều người đọc được dòng chữ này (x. Ga 19,20). Tiếng Hy Lạp là ngôn ngữ của nền văn hóa đương thời; tiếng Latinh là ngôn ngữ của chính trị; tiếng Do Thái là ngôn ngữ của tôn giáo. Tước hiệu vương đế của Đức Giêsu được giới thiệu và tuyên xưng trong mọi lãnh vực, cho cả thế giới, mọi nền văn hóa và ý thức hệ chính trị. Thực tế hôm nay cho thấy điều “tiên tri” này đã được thực hiện: danh Đức Giêsu được kêu cầu bằng mọi ngôn ngữ trên thế giới. Tin Mừng của Người đã đến với mọi nền văn hóa, thấm nhập và làm cho thăng hoa phát triển. Phụng vụ giới thiệu với chúng ta một vị vua nổi tiếng là đạo hạnh của Cựu ước (Bài đọc I). Đó là vua Đavít. Ông là vị vua thứ hai sau Sa-un, kể từ khi Ít-ra-en thiết lập nền quân chủ. Việc Đavít được xức dầu phong vương được coi như một việc làm theo ý của Thiên Chúa. Đavít là hình ảnh của Vị Vua Vũ Trụ là Đức Giêsu là chúng ta tôn vinh hôm nay. Tuy vậy, vương quốc của Đức Giêsu không thu hẹp trong ranh giới của Ít-ra-en như Đavít, nhưng lan rộng khắp thế giới, vì “Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất”. (Bài đọc II). Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca làm chúng ta ngỡ ngàng. Đức Giêsu thi hành quyền vương đế của Người không bằng phong độ của một vị vua trần thế, nhưng lại quyền uy gấp bội phần. Một người bị kết án treo trên thập giá, bị chế diễu nhục nhã, đang quằn quại đau đớn và sắp trút hơi thở cuối cùng mà lại tuyên bố sẽ cho người trộm có lòng sám hối được vào vương quốc của mình. Vương quốc ấy được chính Đức Giêsu gọi là thiên đàng, là nơi mọi người đang ước ao và cố gắng đạt được sau khi đã kết thúc cuộc sống ở trần gian. Quả thật đây là một vị vua không giống những vị vua trần thế. Ngai vàng của Người là thập giá. Thập giá là biểu tượng của hy sinh và tự hiến. Trên ngai vàng thập giá đó, Chúa Giêsu đã tỏ cho nhân loại biết tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người mênh mông rộng lớn tới mức nào. Và, đã hai mươi thế kỷ, vương quyền yêu thương của Người đã được một phần lớn nhân loại đón nhận. Đức Giêsu là vua của vương quốc yêu thương, công bình, vĩnh cửu (lời Tiền tụng thánh lễ). Ai sống yêu thương bác ái thì được thuộc về vương quốc của Chúa. Việc người trộm sám hối được đón nhận vào thiên đàng là bằng chứng của tình yêu và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Người tín hữu tìm thấy niềm hy vọng nơi nhân vật người trộm này. Mặc dù tội lỗi, anh đã tuyên xưng Đức Giêsu là vua. Anh muốn được vào vương quốc của Người và ước vọng của anh đã được chấp nhận. "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". Nhận ra vương quyền của Đức Giêsu và cố gắng sống xứng đáng là công dân trong vương quốc của Người, đó là ơn gọi của người tín hữu. Có những lúc người công dân trong vương quốc của Chúa phải chấp nhận những thiệt thòi hy sinh mất mát để có thể trung thành với Chúa và được hạnh phúc Nước Trời. Nhiều khi chúng ta có khuynh hướng chọn lựa một Đức Giêsu vương hoàng theo kiểu trần gian. Lúc đó, chúng ta chỉ tôn thờ hình ảnh của Người mà chưa chắc được gặp Người. Việc tôn vinh Đức Giêsu là Vua vào Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ mang một ý nghĩa đặc biệt. Chúng ta được mời gọi hướng về ngày cánh chung, tức là ngày tận thế, ngày tận cùng của lịch sử nhân loại. Khi ấy, mọi quyền bính trần thế sẽ chấm dứt; mọi chia rẽ hận thù và chiến tranh tàn khốc sẽ không còn. Chỉ còn vương quốc yêu thương và an bình tồn tại. Vương quốc ấy là vương quốc của Chúa Giêsu. Vị Vua Giêsu vẫn đang hiện diện trong cuộc sống của Chúng ta. Một vị vua không thực thi quyền thống trị. Người đang tiếp tục đi qua các ngả đường và ngõ xóm, ngồi trên lưng một chú lừa con, như trên đường phố Giêrusalem xưa. Người đang gõ cửa tâm hồn chúng ta, dù chúng ta không đón tiếp Người. Trước mặt chúng ta, Người cũng trần trụi như khi đứng trước Philato và mời gọi chúng ta nhận ra mình thuộc về chân lý. Mỗi tín hữu chúng ta được mời gọi nhận ra Người và cùng với Người và anh chị em chung tay xây dựng vương quốc của Người ngay từ hôm nay, khởi đi từ những cố gắng rất đơn giản dung dị trong cuộc sống đời thường. Lạy Chúa Giêsu, chúng con tôn nhận Chúa là vua của cõi lòng mỗi người chúng con. Xin Chúa thương chúc phúc và trợ lực để chúng con xứng đáng là công dân của Nước Trời. Amen. 6. Lời hứa cứu độ--ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi. Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của các ứng viên tổng thống Hoa Kỳ đã đến hồi kết thúc: ngày 8-11-2016 vừa qua, cử tri Mỹ đã chọn ra vị tân tổng thống cho đất nước của mình. Theo kết quả bỏ phiếu, ông Donald Trump, thành viên đảng Cộng hòa, đã đắc cử và trở thành vị tổng thống thứ 45 của đất nước Cờ Hoa. Trong cuộc tranh cử tổng thống, cả hai ứng viên, bà Hillary Clinton, đại diện cho Đảng Dân Chủ và ông Donald Trump, đại diện cho đảng Cộng Hòa đều hứa hẹn rất nhiều. Họ tranh thủ cử tri bằng việc đưa ra những chiến lược đổi mới trong nhiều lãnh vực: giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, điều chỉnh chính sách thuế, ổn định vấn đề người di dân, cải cách an sinh xã hội… Giờ đây, công dân Mỹ đang chờ đợi xem vị tân tổng thống có thực hiện những điều ông đã hứa khi tranh cử hay không. Thông thường, ngôn từ của các chính trị gia được gọi là "Lời nói gỗ - Langue de bois", có nghĩa là không thực và chỉ là những "xảo ngôn", hứa cho qua. Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội suy tôn Chúa Giêsu với tước hiệu "Vua vũ trụ". Người là Vua không giống như một vị tổng thống do cử tri bỏ phiếu bầu ra, nhưng, chính Thiên Chúa Cha đã ban cho Người "mọi quyền năng trên trời dưới đất" (Mt 28, 18). Thiên Chúa Cha cũng sẽ quy phục mọi thù địch dưới chân Người (1Cr 15,25). Đức Giêsu làm vua, vì Người là Con Thiên Chúa, Đấng tác tạo vũ trụ. Người cũng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là dung mạo đầy từ bi thương xót của Chúa Cha. Người đã vâng lời Đức Chúa Cha đến mức chấp nhận cái chết trên thập giá, để cứu độ con người (x. Phl 2,6-12). Chúa Giêsu là vị Vua đã chiến thắng sự chết và đã phục sinh vinh quang. Người là Vua của vương quốc công chính, an bình và yêu thương. Vương quốc của Người không biên giới. Mọi người bất kỳ thuộc về nền văn hóa, chủng tộc hay ngôn ngữ nào, nếu họ thực hành đức yêu thương thì trở thành công dân của Vương quốc này. Bài đọc I giới thiệu cho chúng ta vua Đavít, là một gương mặt điển hình trong hàng ngũ các vua của lịch sử Do Thái. Đavít cũng là hình ảnh của vị Vua Giêsu trong tương lai. Nếu Đavít đã đi vào lịch sử Do Thái bằng những chiến công hiển hách tiêu diệt quân thù, và một đời sống đạo đức cầu nguyện gương mẫu, thì vị Vua Giêsu lại hy sinh mạng sống để cứu chuộc con người, phục hồi phẩm giá của họ và mặc cho họ sự thánh thiện cao sang. Người cũng không phải là một vị vua của quá khứ, cũng không phải là vị vua tương lai, mà là vị vua của hiện tại đang cai trị hoàn vũ này và cai trị các tâm hồn bằng tình yêu thương. Người mời gọi chúng ta hãy đón nhận vương quyền của Người để tâm hồn được thanh thản, và để gánh nặng cuộc đời trở nên nhẹ nhàng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). "Mang lấy ách" là một kiểu nói diễn tả sự đón nhận, tâm tình yêu mến và thiện chí noi gương bắt chước một bậc thầy. Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi. Thánh Luca giới thiệu với chúng ta một vị vua không giống quan niệm trần gian. Đó là một vị vua không có hoàng bào, không ngai vàng, không đội quân danh dự. Ngai vàng của Người là cây thập giá. Bên cạnh Người là hai kẻ trộm với hai thái độ khác nhau: một người hằn học lên án, một người khiêm tốn bênh vực. Đối với người trộm bênh vực Chúa, Người hứa cho họ được vào Nước Trời: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng". Còn lời nào ngọt ngào và hy vọng hơn lời này? Bởi lẽ hành phúc thiên đàng là đích điểm cuộc đời của mỗi chúng ta. Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa của Người. Quyền ấy như quyền của một vị vua, có thể cho phép một công dân gia nhập vương quốc của mình. Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta trở nên công dân của vương quốc của vị Vua Giêsu. Khi suy tôn Người là Vua, chúng ta hãy cố gắng sống đúng với kỷ luật của vương quốc ấy. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: đừng quên rằng Đức Giêsu đã giải thoát chúng ta, đồng thời đưa chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của vương quốc của Người, nhờ đó mà chúng ta được ơn tha thứ mọi tội lỗi (Bài đọc II). Không chỉ hứa với người trộm biết sám hối ăn năn, Chúa cũng nhiều lần hứa ban những điều tốt lành cho những ai tin tưởng cậy trông vào Người. Người hứa hiện diện giữa chúng ta khi chúng ta tập hợp với nhau cầu nguyện nhân danh Người. Như người cha, người thày cảm thương những người con, Chúa khẳng định với chúng ta: "Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho" (Lc 11,9). Tin vào lời hứa của Chúa, chúng ta hãy thực hiện những gì Người dạy, vì "Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng đã phán hứa sự ấy, chẳng có lẽ nào sai được" (Kinh Trông cậy). Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự trị cõi lòng mỗi chúng con, để gánh nặng cuộc đời của chúng con trở nên nhẹ nhàng êm ái. Xin hãy hướng dẫn soi sáng cuộc đời chúng con để lời nói, việc làm và tư tưởng của chúng con luôn ngay thẳng và thánh thiện, đẹp lòng Chúa và thân ái với anh chị em chúng con. Amen. 7. Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên Cách đây hai ngàn năm, một tội nhân bị đưa ra trước công đường của một vị quan tổng trấn. Hai người gặp nhau lần đầu, mặc dù đã nghe nói về nhau. Philatô, người tượng trưng cho quyền lực trần thế, Đức Giêsu, người đại diện cho quyền lực trên cao. Cuộc gặp gỡ này vừa là một vụ án, vừa là một vở kịch. Người sát hạch cũng là người bị hỏi, bên bị cáo cũng là người thẩm vấn. Quả thật là một sự đổi vai giữa hai nhân vật này. “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Một câu hỏi kỳ lạ, thậm chí vô duyên. Có lẽ nào người hiện diện trước mặt ông là một vị vua mà lại không được ông, một vị tổng trấn uy quyền, biết đến? Điều đó cho thấy Đức Giêsu không phải là một vị vua theo quan niệm thế gian. Vương quốc của Người không phải ở thế gian này. Hai ngàn năm đã qua sau vụ án, hôm nay vẫn có những người đang đặt câu hỏi mang tính thách thức như Philatô về vương quốc của Chúa. Vẫn có biết bao người đang kiếm tìm vương quốc ấy, và cũng có vô số tín hữu sẵn sàng đổ máu đào vì vương quốc kỳ diệu này. “Vậy ông là vua sao?” Lại một lần nữa, Philatô buông một câu hỏi vô nghĩa. Trước câu hỏi này, Đức Giêsu cũng không đưa ra một câu trả lời trực tiếp. Người nói: “Chính ngài nói rằng tôi là vua”. Tiếp đó, Người minh định rõ ràng chức năng vương hoàng của Người, đó là chức năng làm chứng cho sự thật. Vậy là đã rõ, vương quốc của Chúa là vương quốc của sự thật, mà sự thật thì không bị xiềng xích. Sự thật cũng như trái tim, không bị chi phối bởi sắc tộc, ngôn ngữ hay thế mạnh quân sự. Sự thật đã và đang đem lại chiến thắng cho con người. “Nước tôi không thuộc chốn này”. Đức Giêsu nhấn mạnh hai lần điều này. Người không muốn để cho Philatô hiểu về chức vương hoàng của Người theo kiểu thế gian. Không chỉ Philatô, mà suốt bề dầy của lịch sử, những ai muốn quan niệm hoặc trình bày tước vị “Vua” của Đức Giêsu theo kiểu trần thế đều bị thất bại. Đã có thời trong, khá nhiều người, kể cả một số vị lãnh đạo, mang quan niệm sai lầm về sức mạnh của Giáo Hội, khi họ cho rằng Giáo Hội mạnh mẽ nhờ thế lực trần gian hoặc do sức mạnh của đồng tiền. Quan điểm ấy đã chuốc lấy những bài học chua cay. Đức Giêsu tuyên bố chức năng vương hoàng của Người vào lúc Người bị điệu ra trước pháp đình. Qua đó, người muốn khẳng định rõ: Người làm vua để phục vụ và trao gửi yêu thương. Sau bao thế kỷ, Giáo Hội cũng đã ngộ ra rằng sức mạnh của Giáo Hội không đến từ quyền lực trần thế, mà là đến từ Đấng chịu đóng đinh. Cộng đoàn tín hữu tiên khởi, mặc dù phải đối diện với biết bao khó khăn do thù nghịch đến từ phía người Do Thái và nhà cầm quyền La-mã, nhưng vẫn tăng trưởng, vì họ tìm được sức mạnh nơi Đấng đã chịu đóng đinh trên thập giá, đã chịu chết và đã Phục Sinh. Khi mừng lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, Phụng vụ muốn nhắc cho chúng ta về khái niệm “vương quyền” của Đức Giêsu. Vương quốc của Người đã được khởi đầu ở trần gian này rồi, như lời rao giảng của Chúa khi khởi sự công cuộc loan báo Tin Mừng: “Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Tuy thế, vương quốc của Chúa vẫn chưa được thực hiện, mà đang trong thời kỳ đạt tới thành toàn, vào thời điểm Chúa muốn. Sự thành toàn của vương quốc Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong tương lai, lúc ấy, Con Người sẽ từ mây trời ngự đến, thống trị vinh quang mãi mãi (Bài đọc I). Năm phụng vụ chấm dứt với chúa nhật hôm nay. Chúng ta cũng được mời gọi suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời. Là con dân của Nước Chúa, người tín hữu phải nỗ lực thực thi tình bác ái và xây đắp an bình, vì Nước Chúa là nước của bình an, nhân ái, chan hòa tình Chúa tình người. Khi cố gắng thực thi lời Chúa dạy là chúng ta làm cho vương quốc của Chúa mau trị đến. Tuyên xưng Chúa là Vua, chúng ta cũng muốn thuộc trọn về Người. Đây cũng là dịp để chúng ta nghĩ về lòng trung thành của chúng ta với Chúa. Tấm “hộ chiếu” của vương quốc vĩnh cửu chính là đức tin vững vàng, đức cậy trung tín và đức mến thiết tha. Chúa sẽ nhận ra chúng ta, qua việc thiện chí sống và thực thi những nhân đức này. Suy Niệm: Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa. Trong Ngài muôn loài được tạo thành. Nhờ Ngài vạn vật được cứu độ. Vì thế Ngài là chủ tể là vua vũ trụ. Nước của Ngài không hạn hẹp một quốc gia nào, một dân tộc nào. Nhưng bao trùm toàn thể chúng sinh. Vinh quang uy quyền của ngai báu Ngài không tỏ hiện bằng vũ lực, bằng cao sang thế trần, nhưng êm đềm trong yêu thương, trong tình thân ái để đem hạnh phúc đích thực cho mọi tâm hồn. Cầu Nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cải tạo mọi sự trong Con yêu dấu Chúa, là vua vũ trụ: Xin đoái thương cho mọi loài thọ tạo đã được giải thoát khỏi vòng nô lệ, biết phụng thờ uy linh Chúa, và biết luôn luôn ngợi khen Chúa. Chúng con Cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen. 8. Lạy Chúa, xin nhớ đến con--ĐGH. Phanxicô (Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Thánh lễ bế mạc Năm Đức Tin tại Quảng trường Thánh Phêrô - Chúa nhật Lễ Chúa Kitô Vua, 24-11-2013 - Huy Hoàng chuyển ngữ - Nguồn: WHĐ) Hôm nay, đại lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, kết thúc năm phụng vụ, cũng là kết thúc Năm Đức tin đã được Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI công bố. Giờ đây chúng ta hướng về Đức Bênêđictô với đầy lòng yêu mến và biết ơn vì ngài đã tặng cho chúng ta món quà ấy. Nhờ sáng kiến do Chúa quan phòng này, ngài đã cho chúng ta cơ hội khám phá lại vẻ đẹp của hành trình đức tin đã khởi đầu từ ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội, làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và anh chị em với nhau trong Giáo hội. Mục tiêu tối hậu của cuộc hành trình ấy là chúng ta được gặp gỡ Thiên Chúa một cách trọn vẹn, và trong hành trình ấy Chúa Thánh Thần thanh tẩy chúng ta, nâng chúng ta lên và thánh hoá chúng ta, để đưa chúng ta vào cõi phúc lòng chúng ta hằng khát khao. Tôi xin gửi lời chào thân ái và huynh đệ đến các vị Thượng phụ và Tổng giám mục Trưởng của các Giáo hội Công giáo Đông phương đang hiện diện ở đây. Lời chúc bình an mà tôi sẽ trao đổi với các vị trước hết muốn nói lên rằng Giám mục Roma nhìn nhận các cộng đoàn này đã tuyên xưng Danh Chúa Kitô với một lòng trung thành gương mẫu, thường phải trả giá đắt. Đồng thời, với cử chỉ này, qua các vị, tôi cũng muốn liên kết với tất cả những Kitô hữu đang sống ở Thánh Địa, ở Syria và trong toàn thế giới Đông phương, xin cho tất cả được ơn bình an và hoà hợp. Các bài đọc Kinh Thánh vừa được công bố có cùng một chủ đề là vị thế trung tâm của Chúa Kitô. Chúa Kitô ở trung tâm, Chúa Kitô là trung tâm. Chúa Kitô là trung tâm của tạo thành, trung tâm của dân Người và trung tâm của lịch sử. 1. Thánh Tông đồ Phaolô cho chúng ta một tầm nhìn sâu sắc về vị thế trung tâm của Chúa Giêsu. Ngài trình bày với chúng ta Chúa Kitô là Trưởng tử của mọi loài thọ sinh: trong Người, nhờ Người và với Người mà muôn vật được tạo thành. Người là trung tâm của mọi vật, là khởi nguyên: Người là Đức Giêsu Kitô, là Chúa. Thiên Chúa đã ban cho Người sự viên mãn, tất cả, để trong Người mọi vật được giao hòa (x. Co 1,12-20). Người là Chúa của tạo thành, Chúa của giao hoà. Hình ảnh này cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu là trung tâm của tạo thành; và, vì thế thái độ phải có của người tín hữu –nếu muốn là người tín hữu– là phải nhận biết và chấp nhận vị thế trung tâm ấy của Chúa Giêsu Kitô trong cuộc sống, trong tư tưởng, trong lời nói và hành động của mình. Khi ấy tư tưởng của chúng ta sẽ là tư tưởng của người Kitô hữu, của Chúa Kitô; hành động của chúng ta sẽ là hành động của người Kitô hữu, của Chúa Kitô; lời nói của chúng ta sẽ là lời nói của người Kitô hữu, của Chúa Kitô. Trái lại, khi chúng ta đánh mất trung tâm này, vì đã thay thế bằng điều gì khác, thì sẽ chỉ là tác hại, cho môi trường chung quanh chúng ta và cho chính chúng ta. 2. Không chỉ là trung tâm của tạo thành và trung tâm của giao hoà, Chúa Kitô còn là trung tâm của dân Thiên Chúa. Và ngay hôm nay, Người ở đây, giữa chúng ta. Lúc này Người đang ở đây trong Lời Chúa, Người sẽ ở đây trên bàn thờ, sống động, hiện diện giữa chúng ta là dân của Người. Đó là điều mà bài đọc thứ nhất mô tả cho chúng ta thấy: khi các chi tộc Israel đi tìm Đavit và xức dầu tấn phong ông làm vua Israel trước mặt Chúa (x. 2 Sm 5,1-3). Khi tìm kiếm một vị vua lý tưởng, thực ra con người đang tìm kiếm chính Thiên Chúa: một Thiên Chúa trở nên gần gũi, chấp nhận trở thành người bạn đồng hành của con người, trở nên một người anh em của con người. Chúa Kitô, hậu duệ của vua Đavit, chính là người "anh em" mà dân Chúa vây quanh, là Đấng chăm sóc dân, chăm sóc tất cả chúng ta, với cái giá phải trả là mạng sống của Người. Trong Người chúng ta nên một; một dân duy nhất được kết hiệp với Người, chúng ta chia sẻ một hành trình duy nhất, một vận mệnh duy nhất. 3. Cuối cùng, Đức Kitô là trung tâm của lịch sử nhân loại và trung tâm của mỗi người. Chúng ta có thể dâng lên Người những vui buồn, hy vọng và khó khăn trong cuộc sống của chúng ta. Khi Chúa Giêsu ở trung tâm, ngay cả những lúc đen tối nhất của cuộc sống chúng ta cũng sẽ bừng sáng. Người ban cho chúng ta hy vọng, như đã xảy ra với người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay. Trong khi tất cả những người khác nói với Chúa Giêsu một cách khinh miệt – "Nếu ông là Đấng Kitô, là Đấng Mêsia, thì hãy cứu mình đi và hãy xuống khỏi cây thập tự!" – thì người trộm đã phạm bao lỗi lầm trong cuộc sống, cuối cùng lại sám hối, níu lấy Chúa Giêsu đang chịu đóng đinh và cầu xin: "Khi ông vào Nước của ông, xin hãy nhớ đến tôi" (Lc 23,42). Và Chúa Giêsu hứa với anh: "Hôm nay anh sẽ được ở trên Thiên đàng với tôi" (c. 43). Chúa Giêsu chỉ nói lời tha thứ, chứ không nói lời kết án; và khi con người biết can đảm xin ơn tha thứ, Chúa không bao giờ bỏ rơi lời cầu xin ấy. Ngày nay, tất cả chúng ta có thể nghĩ đến câu chuyện của chúng ta, hành trình của chúng ta. Mỗi người chúng ta đều có câu chuyện của mình; mỗi người chúng ta cũng có những sai lầm, tội lỗi, những lúc hạnh phúc và những khi đen tối. Ngày hôm nay là dịp tốt để mỗi người nghĩ đến câu chuyện của mình, và nhìn Chúa Giêsu rồi chân thành lặp đi lặp lại trong thinh lặng: "Lạy Chúa, bây giờ Chúa đang ở trong Nước Chúa, xin nhớ đến con! Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến con, vì con muốn sống tốt, muốn nên tốt lành, nhưng con yếu đuối, con không thể: con là người tội lỗi. Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến con. Chúa có thể nhớ đến con, vì Chúa là trung tâm, Chúa ở trong Nước Chúa!" Thật đẹp biết bao! Tất cả chúng ta hãy làm điều đó trong ngày hôm nay, mỗi người hãy làm điều đó trong tâm hồn mình, nhiều lần. "Lạy Chúa, Chúa ở trung tâm, Chúa ở trong Nước Chúa, xin nhớ đến con". Lời hứa của Chúa Giêsu với người trộm lành cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao: lời ấy nói với chúng ta rằng ơn Chúa bao giờ cũng phong phú hơn lời cầu xin. Chúa luôn ban cho nhiều hơn, Người rất quảng đại, luôn ban cho nhiều hơn điều con người cầu xin: bạn xin Người nhớ đến bạn, còn Người lại đưa bạn vào Vương quốc của Người! Chúa Giêsu chính là trung tâm những nỗi khát mong niềm vui và ơn cứu độ của chúng ta. Nào chúng ta hãy cùng nhau lên đường! 9. Lễ Chúa Kitô Vua - ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm Họa sĩ Louis David đã vẽ một bức tranh thời danh về cái chết của Socrate: Một con người tráng kiện, một tay chỉ lên trời, một tay giơ ra cầm chén thuốc độc, mặt quay nhìn các môn đệ với ánh mắt sáng ngời. Ông mặc chiếc áo vải thô, sống rất tầm thường, khác với bọn ngụy biện ăn mặc sang trọng để lôi cuốn dân thủ đô Athen. Ông cũng khác với các hiền triết xưa, ông không có chức vụ gì quan trọng. Ông bị Quốc hội Athen Hy Lạp văn minh nhất thời đó kết án phải uống thuốc độc chết vì tội đầu độc lớp thanh niên và tôn sùng vị thần khác với các thần của thành phố (năm 470-399 trước công nguyên). Suốt đời ông rảo khắp đất nước rao giảng chân lý với đôi chân trần chai sạn. Mục đích của ông giúp các thanh niên thức tỉnh, tự truy tìm chân lý ở nội tâm mình: “Anh hãy tự biết mình” (connais-toi, toi même) bằng phương pháp đối thoại gợi ý (Maieutikê). Tự biết mình để giải thoát mình khỏi những thành kiến sai lầm, những độc đoán ngụy biện, những chính sách chính trị. Trước khi chết ông đã cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con sự trong sáng nội tâm - “Mon Dieu, donne-moi la purité intérieure” Triết gia Hégel đã gọi ông là “anh hùng của nhân loại” (héros de lhunanité). Giáo sư Didier Julia gọi ông là điển hình của một tông đồ đem lại tự do chân chính. Socrate đã làm chấn động tận gốc những tập tục cổ hủ và chuẩn bị lương tri con người đón nhận một sứ điệp khác: Sứ điệp Kitô giáo (Dictionnaire de la philosophie: Larousse). Platon, môn đệ của ông đã chứng kiến cái chết của Socrate, đã tôn thầy mình là Đấng sáng lập nền trí thức về tình yêu, về Thiên Chúa, về lời mời gọi đi tới huyền nhiệm. Socrate là “vạn thế sư phụ của Tây phương” cũng như Khổng Tử là “vạn thế sư biểu của Đông phương”. Còn, Đức Giêsu là “vạn thế vương đế của thế giới”. Cũng như Socrate, Đức Giêsu là thường dân áo vải, đã rảo khắp đất nước và các lân bang để rao giảng chân lý: Chân lý về tình yêu muôn thuở, về mầu nhiệm nước trời, về Thiên Chúa là Cha nhân lành hằng ban sự sống vinh quang để giải phóng con người khỏi nô lệ cổ truyền bất nhân, khỏi gông cùm sự dữ. Những chân lý đó đánh bật tận gốc những tham vọng ích kỷ, hẹp hòi, đê tiện của các tầng lớp xã hội bất công. Những chân lý đó giống như luật lệ chống tham nhũng, chống mafia. Những ai can đảm thực thi những luật lệ chân chính đó đều bị bọn tham ô và mafia diệt trừ. Đức Giêsu là Vua công chính, lại bị bọn bất chính kết án tử hình. Bọn bất chính đó là các thủ lãnh trong hàng ngũ biệt phái, Sa đốc, thượng tế, tư tế và quyền đời như Hêrôđê và Philatô. Họ đang đắc thắng nhạo báng Đức Giêsu rằng: “Hắn cứu được thiên hạ, có giỏi thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô, được Thiên Chúa tuyển chọn”. Họ đã biết rõ Người cứu thiên hạ, đã chữa bao nhiêu bệnh nhân, cho những kẻ chết sống lại, trừ khử quỷ ám. Nhưng họ kiêu ngạo chụp mũ Người đã dùng tướng quỷ mà trừ quỷ, kết án Người là kẻ tội lỗi vì cứu chữa bệnh nhân trong ngày nghỉ Sabát, ghép Người vào hàng ô uế tội lỗi và bọn thâu thuế. Họ cho mình trong sạch, không đi lại với dân ngoại, không động đến kẻ phong cùi, kẻ bị cướp đánh nửa sống nửa chết nằm giữa đường. Và khi họ đã đóng đanh Người, họ còn bất nhân, tàn nhẫn chế nhạo và thách thức Người. Họ như thằng quỷ cám dỗ Người khi Người ăn chay 40 đêm ngày: “Nó đến nói với Người: Nếu Ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho hòn đá này hóa bánh”. Họ cũng giống những người Nazaret nói với Người: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói Ông đã làm ở Capharnaum, Ông cũng hãy làm tại đây, tại quê Ông xem nào!” (Lc. 4, 3-23). Trước những lời mỉa mai đó, Đức Giêsu đã lặng thinh. Người không tự bào chữa, Người để họ tố cáo Người như một kẻ bất lực, bất tài. Họ cứ tưởng rằng Đấng Kitô là Vua Do Thái, sẽ giải phóng dân tộc, sẽ là anh hùng vĩ đại bách chiến bách thắng như Vua David, khôn ngoan bắt cả thế gian phải thần phục mình như Salômôn. Noi gương các sếp thủ lãnh nhạo báng, bọn lính cũng a dua chế diễu: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì tự cứu mình đi”, chua chát thay! Chúng vừa nói móc vừa đóng bảng án phía trên đầu Người để kết tội: “Người này là Vua Dân Do Thái”. Đó là cách phong vương của quân dữ. Nghi thức phong vương thường lệ là thầy thượng phẩm nhân danh Thiên Chúa xức dầu tấn phong ai làm vua trước mặt đông đảo dân chúng chứng kiến và nhiệt liệt tung hô (Bài I). Còn nghi lễ phong vương của Thiên Chúa thì khác: Thiên Chúa sai ngôn sứ đến xức dầu cho người Chúa chọn, như Thiên Chúa đã bảo Samuel đến xức dầu cho David. Thần khí Thiên Chúa đã đáp xuống David làm cho con người bé nhỏ trở nên phi thường. Nhờ đó David đã tung ná bắn đá vào trán Gôliat té nhào chết. Gôliat là điển hình sức mạnh vũ bão của loài người, còn David là đứa bé hèn mọn đã đánh Gôliat với danh Thiên Chúa (1Sm. 16, 11-13; 17, 4-50). Việc tấn phong Đức Giêsu làm Vua, không phải do con người mà do chính Thiên Chúa dùng Thánh Thần xức dầu phong vương cho Đức Giêsu khi Người chịu phép rửa trên sông Gióc-đan: “Trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu, lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là con của Cha …” (Lc. 3, 22). Với sức mạnh Thánh Thần, Đức Giêsu đã thực hiện sứ mệnh là Vua Cứu thế đến tột đỉnh trên ngai vàng thập giá, đầu đội triều thiên gai. Đó là những dụng cụ để chiến thắng sức mạnh của các thủ lãnh và quân lính thế gian, chiến thắng đau khổ và thần chết. Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết đứng kề Thánh giá với Đức Mẹ, Thánh Gioan và các Thánh nữ, biết nhìn vào Trái tim Chúa đang chảy máu và nước ra như viên sĩ quan, để cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này thật là công chính”, và biết kêu van: “Lạy Ngài khi Ngài vào nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Hay ít nhất, cho con biết đấm ngực ăn năn như dân chúng để thú tội và mến yêu Ngài là Vua Tình thương tha thứ, Vua Hy sinh chịu chết cứu độ con. Amen. 10. Chúa Giêsu là Vua--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái Chủ Ðề: Chúa Giêsu là Vua I. Dẫn vào Thánh lễ Anh chị em thân mến Hôm nay là Chúa nhựt cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa vạch cho chúng ta thấy lúc tận cùng của thời gian Chúa Giêsu sẽ làm vua ngự trị trên toàn thể mọi sự và mọi người. Nhưng từ nay cho đến lúc đó, Chúa vẫn làm vua trong lòng những người tin cậy và yêu mến Ngài. Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta nhận thức vị trí và vai trò làm vua của Chúa trên cuộc đời chúng ta, đồng thời xin Chúa cũng giúp chúng ta phụng thờ Ngài cho xứng đáng. II. Gợi ý sám hối Chúng ta đã tôn thờ những "vua" khác không phải là Chúa, như tiền bạc, danh vọng, lạc thú v. v. Chúng ta không sống theo sự dẫn dắt của Chúa. Chúng ta không sống theo luật của Nước Chúa là luật yêu thương. III. Lời Chúa 1. Bài đọc I (2 Sm 5, 1-3) Đoạn này thuật cuộc phong vương lần thứ hai cho Đavít. Cần nhớ rằng sau khi Vua Saun chết, các chi tộc miền Nam đã phong Đavít làm vua của họ. Một thời gian sau, vì mến mộ tài đức của Đavít nên các chi tộc miền Bắc cũng phong Đavít làm vua họ nữa. Như thế là đất nước thống nhất dưới quyền lãnh đạo một vị vua duy nhất. Trong biến cố này, Thiên Chúa cũng lên tiếng. Ngài nói với Đavít: "Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel, dân của Ta". Câu này rất ý nghĩa: vua Đavít chỉ là "người chăn dắt" dân "của Thiên Chúa". Chính Thiên Chúa mới là Vua thật của "dân Ngài". 2. Đáp ca (Tv 121) Đây là một ca khúc lên đền, nghĩa là ca khúc mà những người hành hương hát khi họ tiến đến gần đền thờ Giêrusalem. Tuy những người hành hương tiến đến nơi có đặt "ngai vàng của vương triều Đavít", nhưng họ ý thức rằng họ là những "chi tộc của Chúa" vì chính Chúa mới là vua thật của họ. 3. Tin Mừng (Lc 23, 35-43) Đoạn Tin Mừng này mô tả cảnh Chúa Giêsu trên thập giá: Phía dưới thập giá, dân chúng "đứng nhìn" cách bàng quan như không liên can gì đến mình, các thủ lãnh Do Thái thì chế nhạo "Hắn đã cứu người khác thì hãy cứu lấy mình đi nếu thật hắn là Đấng Kitô", lính tráng cũng chế diễu "Nếu ông là vua dân Do Thái thì hãy cứu lấy mình đi". Trên đầu Ngài có bảng viết "Đây là vua người Do Thái" Bên cạnh Ngài có hai tên gian phi: một tên hùa theo đám người phía dưới để chế diễu Ngài; tên kia công nhận Ngài là vua nên nói với Ngài "Khi ngài vào Nước của Ngài thì xin nhớ đến tôi". Nghĩa là: thánh Luca đã cố ý trình bày Chúa Giêsu trên thập giá như một vị vua đang ngự trên ngai của mình. Nhưng đa số những người ở dưới và bên cạnh, vì đã quá quen với hình ảnh một ông vua trần gian nên chẳng những không nhận ra Ngài mà còn chế nhạo Ngài. 4. Bài đọc II (Cl 1, 12-20) Thánh Phaolô trích dẫn một bài thánh thi trình bày địa vị của Chúa Giêsu Kitô: Đối với Thiên Chúa: Chúa Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa. Đối với công trình sáng tạo: nhờ Chúa Giêsu mà muôn vật được tạo thành. Đối với công trình cứu độ: nhờ cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mà mọi người được giao hòa lại với Thiên Chúa. Như thế, Chúa Giêsu là Vua tối cao trên toàn thể vũ trụ. IV. Gợi ý giảng * 1. Nguồn gốc và ý nghĩa Lễ Chúa Giêsu là Vua Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan: "Homo homini lupus": con người là lang sói của con người. Lang sói là một loài thu dữ, bản tính thích tấn công, cắn xé và giết chóc. Thế mà loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn tấn công nhau, cấu xé và giết chóc nhau. Bởi vậy một sử gia đã đưa ra một kết luận tương tự với nhận định bi quan của triết gia trên: lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau. Từ khi có loài người trên mặt đất này cho đến nay, có mấy khi mà loài người được hưởng thái bình? Hầu hết thời gian lịch sử của loài người đều là chiến tranh. Gần đây nhất là 2 cuộc thế giới đại chiến, cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, làm cho 8.700.000 người chết; cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, giết chết thêm 40 triệu sinh mạng nữa. Và hiện nay cả loài người đều phập phòng lo sợ sẽ xảy ra một cuộc đại chiến lần thứ 3 với những vũ khí hạt nhân. Lần này không phải chỉ có 8.700.000 người chết, hay 40 triệu người chết mà là tất cả mọi người, trái đất sẽ nổ tung, toàn thể loài người sẽ bị tiêu diệt. Tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết suy nghĩ, một loài cao hơn tất cả mọi loài vật khác mà lại cư xử với nhau một cách ngu xuẩn như vậy? Thưa vì trong con người chúng ta vừa có tính thú vừa có tính người: tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ biết tính toán. Khi buông trôi theo tính thú thì loài người chiến tranh với nhau; và nếu con người lại dùng cái trí khôn ngoan của tính người để phục vụ cho cái tính thú kia thì con người lại càng dã man hung dữ làm hại nhau còn hơn loài sang sói đích thực nữa. Điều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sự quá khứ, con người đã buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau. Cho nên trong bối cảnh giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới làm chết hàng mấy chục triệu sinh mạng con người như thế, ngày 11.12.1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu nguyện cho loài người thôi đừng buông theo tính thú mà cấu xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà chinh chiến với nhau; nhưng mọi người hãy suy phục vương quyền Chúa Kitô và xây dựng vương quốc của Ngài, Đức Giáo Hoàng coi đó là chấm dứt chiến tranh. Sở dĩ loài người cứ luôn làm hại làm khổ lẫn nhau là vì loài người còn sống theo cái tính thú trong mình. Vậy nếu muốn cho loài người hoà thuận với nhau để cùng nhau chung hưởng thái bình thì loài người phải sống theo cái tính người, gồm có những đức tính mà Chúa đã dạy chúng ta trong Tin Mừng. Con người sống đúng là con người. Chúa Giêsu gọi đó là Sự Thật; còn ngôn ngữ phụng vụ hôm nay thì gọi đó là vương quyền, vương quốc của Chúa Kitô. Nước Chúa. Ai sống theo những giá trị Tin Mừng để thành người hơn thì người đó thuộc về Nước Chúa; ai giúp cho người khác sống theo những giá trị Tin Mừng ấy thì người đó đang mở mang Nước Chúa; và khi mọi người, dù có đạo hay không có đạo, đều sống theo những giá trị Tin Mừng ấy, thì đó là thời Nước Chúa đã trị đến. Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Giáo hội đặt lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng này, cũng có ý nghĩa: đó là ước nguyện sao cho cuối cùng tất cả mọi người đều ở trong Nước Chúa, một nước chỉ có hoà thuận yêu thương, một nước thái bình hạnh phúc. Phần mỗi người chúng ta, hãy cố gắng xứng đáng là một công dân Nước Chúa, nghĩa là biết sống đúng tính người, sống theo lương tâm, sống hoà thuận, yêu thương, làm việc lành theo lời dạy của Tin Mừng. Chúng ta cũng hãy cố gắng mở mang Nước Chúa bằng cách làm cho thêm nhiều người khác cũng biết sống hoà thuận yêu thương sống theo lương tâm và làm việc lành như vậy. * 2. Chân lý cuối cùng Trong những Chúa nhựt cuối của năm phụng vụ, Lời Chúa mời chúng ta nghĩ đến lúc tận cùng của thời gian, để thấy trước khi ấy tình hình sẽ như thế nào, và nhờ đó mỗi người cũng biết điều chỉnh cuộc sống mình trong hiện tại cho phù hợp với viễn ảnh cuối cùng ấy. Bằng ngôn ngữ khải huyền, các sách Tin Mừng mô tả lúc đó mặt trời mất sáng, mặt trăng tối sầm lại và các tinh tú trên trời rụng xuống. Qua những hình ảnh lạ lùng ấy, tác giả muốn nói rằng khi đến lúc tận cùng của thời gian, tất cả mọi thứ mà xưa nay người ta coi là quyền lực đều sụp đổ hết, để chỉ còn quyền lực của Thiên Chúa tồn tại và ngự trị. Còn sách Huấn ca Ben Sira thì mô tả một cách thi vị hơn và bằng những hình ảnh gần gũi hơn: "Phù hoa nối tiếp phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa... Hoa nào không phai tàn. Trăng nào không khuyết Ngày nào mà không có đêm. Yến tiệc nào không có lúc tàn Phù hoa nối tiếp phù hoa... " Một thi sĩ khác cũng có những suy nghĩ tương tự, ông suy nghĩ về thời gian: "Khi tôi là một đứa trẻ... tôi thấy thời gian bò tới Khi tôi là một thanh niên... tôi thấy thời gian đi bộ Khi tôi trưởng thành... tôi thấy thời gian chạy Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín muồi thì thấy thời gian bay Chẳng bao lâu nữa tôi chết, lúc đó thời gian đã đi mất Ôi lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến, thì ngoài Ngài ra, không còn gì là quan trọng nữa" Những dẫn nhập khá dài dòng trên chỉ nhằm giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng lễ Chúa Kitô Vua hôm nay theo đúng hướng mà Phụng vụ của ngày Chúa nhựt cuối năm Phụng vụ muốn chúng ta hiểu. Trong hướng đó, chúng ta thấy được một số chân lý sau đây: Thứ nhất: Đến lúc tận cùng của thời gian, nghĩa là đến ngày tận thế, hoặc ngày chết của mỗi người, thì chúng ta sẽ thấy tất cả đều sẽ sụp đổ: tiền bạc, danh vọng, sức khoẻ, thế lực, thú vui.... Tất cả đều không còn ý nghĩa và tầm quan trọng gì đối với bản thân mình hết. Đúng như lời của bài thơ chót mà tôi vừa đọc: "Lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến thì ngoài Ngài ra không còn gì là quan trọng nữa". Thứ hai: Nếu khi đó chỉ có Chúa là quan trọng thì từ trước tới lúc đó trong cuộc sống, chỉ những ai gắn bó và nương dựa vào Chúa mới thấy yên lòng; còn những người quen tìm kiếm, chạy theo và nương dựa vào những thế lực khác như tiền bạc, quyền lực, thú vui v. v. sẽ thấy chới với, cô đơn, trơ trụi... Thứ ba: Khi đó, đối với tất cả mọi người, dù tin hay không tin, dù tốt hay xấu, mọi người đều mở mắt và nhận thực rằng Chúa Giêsu chính là Kitô và là Vua thật. Kitô nghĩa là Đấng Cứu Vớt, Vua nghĩa là Đấng thống trị. Nhiều người trong lúc còn sống đã tưởng rằng nguồn cứu vớt của họ và thế lực hỗ trợ họ là tiền tài danh lợi thế gian, nhưng khi đó họ sẽ biết họ lầm. Chẳng hạn các nhân vật trong bài Tin Mừng hôm nay: Các thủ lãnh Do Thái, quân lính, Philatô và tên gian ác ở bên trái Ngài. Chiều hôm đó trên đồi Sọ, họ tưởng Chúa Giêsu đang thất thế vì rõ ràng Ngài đang bị treo, bị đóng đinh dính cứng vào thập giá. Họ chế nhạo Ngài "Nào có giỏi thì thử xuống khỏi thập giá đi". Họ cũng gọi Ngài là Kitô đó, cũng gọi Ngài là Vua đó, nhưng gọi một cách mỉa mai, gọi để nhạo báng: chẳng qua hắn chỉ là một tên Kitô dỏm, một ông vua cỏ mà thôi! Nhưng đến ngày cùng tận, tất cả những người ấy sẽ sửng sờ khi thấy kẻ bị họ nhạo báng ấy lại xuất hiện với tất cả uy quyền và vinh quang, để xét xử và trừng phạt họ. Ngài đúng là Kitô và là Vua. Chiều hôm ấy trên đồi sọ, chỉ có một người đã nhận biết Ngài, đó là người trộm lành ở bên phải. Anh đã tin Ngài là Vua nên anh nói "Khi nào Ngài vào Nước của Ngài"; anh cũng tin Ngài là Đấng Kitô cứu thế nên mới thưa "Xin Ngài cứu tôi, xin hãy nhớ đến tôi". Và chúng ta hãy suy nghĩ: hiện bây giờ người trộm lành ấy đang ở đâu? Chắc chắn anh đang ở bên Chúa và hưởng hạnh phúc trong nước Chúa, như lời Chúa Giêsu đã hứa với anh chiều hôm ấy: "Ta bảo thật, ngay hôm nay anh sẽ được ở với Ta trên thiên đàng". Thật hạnh phúc thay cho người trộm lành, cả một đời gian ác tội lỗi, nhưng cuối cùng đã gặp được hạnh phúc thiên đàng, nhờ anh đã hiểu được phải trao cuộc đời cho ai và bám víu vào ai. Cái chân lý mà mãi đến phút cuối đời người trộm lành mới thấy được ấy, Phụng vụ muốn chỉ cho chúng ta thấy ngay từ hôm nay: Chúa Giêsu chính là Đấng Kitô cứu vớt, Ngài chính là Vua. Ngoài Ngài ra không có ai, không có cái gì là vua thật và có thể cứu chúng ta thật. Vậy ngay từ hôm nay chúng ta hãy quyết định trao gởi cuộc đời mình cho Ngài, sống gắn bó với Ngài, và từ bỏ tất cả những gì nghịch với Ngài. Có như thế chúng ta mới có thể hưởng hạnh phúc muôn đời bên cạnh Ngài, là Kitô thật và là Vua thật của chúng ta. * 3. Cơn cám dỗ cuối cùng Vua Cảnh Công nước Tề, một hôm lên chơi núi Ngưu Sơn. Nghĩ rằng có ngày sẽ phải chết và giang sơn gấm vóc lại lọt vào tay kẻ khác, vua liền trào nước mắt tiếc thương. Đoàn tuỳ tùng thấy vua khóc cũng khóc theo. Duy chỉ có Án Tử là chúm miệng cười. Vua chau mày hỏi: - Tại sao người ta ai cũng khóc cả, mà nhà ngươi lại cười? Án tử trả lời: - Nếu các vua đời trước mà sống, thì vua ngày nay hẳn còn phải mặc áo tơi đội nón lá. Nhờ thế sự thăng trầm mà nay đến lượt vua được mặc áo gấm, đội mũ ngọc. Thế mà vua lại khóc. Thấy đấng làm vua bất nhân, bầy tôi siểm nịnh, tôi không cười sao được? * Vua trần gian có thần dân để cai trị, có quan quân để sai khiến, có tiền của mỹ nữ để truy hoan. Chúa Giêsu trái lại, Người không làm vua theo kiểu thường tình ấy. Người đã khẳng định: "Nước tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 18, 36). Vì thế, cung cách của vị vua Giêsu hoàn toàn mới lạ. Tin Mừng hôm nay sẽ nói lên tính cách Vương Quyền ấy của Người. Dưới hình thức nhạo báng của các thủ lãnh Do thái, của lính tráng, của bản án treo trên thập giá, đã nói!ên vương quyền của Chúa Giêsu: "Hắn đã cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấâng Ki tô của Thiên Chúa, người được Thiên Chúa tuyển chọn" (Lc 23, 35). "Đấng Kitô" chính là người được xức dầu, là tước hiệu của vua. "Người Thiên Chúa tuyển chọn" chính là tước hiệu Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Nhất là lời tuyên xưng của người trộm lành đã nói lên vương quyền của Người: "Khi nào về Nước của Người, xin nhớ đến tôi" (Lc 35, 42). Tuy nhiên, nước của Chúa Giêsu không nhằm tư lợi cá nhân như các thủ lãnh khiêu khích, cũng không để ra oai quyền uy như bọn lính thách thức. Nước của Người là Nước Tình Yêu, vương quyền của Người là để phục vụ. Vì thế, Người đã không "xuống khỏi thập giá" cách ngoạn mục, nhưng đã "kéo mọi người" lên với Người (Ga 13, 32). Người đã không "cứu lấy chính mình", nhưng đã "cứu lấy mọi người" khỏi chết muôn đời nhờ cái chết của Người. Người đã sẵn lòng chịu chết giữa hai tên gian phi, như lời Kinh Thánh rằng: "Người đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân" (ls 53, 12). Người đã hoà mình trong đám người tội lỗi, đã chịu chung số phận của họ, Người đã sống và đã chết giữa đám tội nhân, như lời đồn đại về Người: "Bạn của người thu thuế và phường tội lỗi" (Mi 11, 19). Vâng, vương quyền của Người không cai trị bằng sức mạnh biểu dương, nhưng chinh phục bằng "khối" tình yêu thương. Chính vì thế mà Người đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng, là lời thách thức xuống khỏi thập giá, để sẵn lòng chịu chết hầu cứu chuộc con người tội lỗi, chính là thần dân của Người, Thần dân đầu tiên mà vị Vua có vương miện là mão gai, và ngai vàng là gỗ thánh giá đã chinh phục, chính là người trộm lành. Giữa lúc những kẻ trước đây tung hô vạn tuế nay lại nhạo báng Người, giữa lúc các môn đệ thề sống chết với Người nay lại bỏ trốn hết, thì chỉ có một mình anh, người trộm lành, lên tiếng bênh vực Người: Anh mắng người trộm dữ: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này có làm điều gì trái!" (Lc 35, 40-41). Anh tỏ lòng kính sợ Chúa và ăn năn sám hối, đó là thái độ của người sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ. Hơn nữa giữa lúc chương trình của Chúa Giêsu dường như thất bại, không còn hy vọng cứu vãn; giữa lúc thập tử nhất sinh, gần kề cái chết, thì chỉ mình anh, người trộm lành, đã tin vào Chúa, tin vào sự sống đời sau, và tin vào vương quyền của Người. Anh cầu nguyện: "Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Người nhận lời tức khắc: "Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta" (Lc 35, 43). Một lời hứa mà Người chưa hề ban cho ai dù đó là người thân tín và yêu quí nhất của Người. Một lời hứa được thực hiện ngay tức thì, không đợi đến sáng phục sinh hay ngày thế mạt. Một lời hứa đi vào vương quốc của những người công chính, qui tụ quanh vua Giêsu vinh hiển. Lời hứa ban hạnh phúc cho anh trộm lành chính là cuộc sống thân mật với Vua Giêsu, mà anh đã chia sẻ số phận của Người trên thập giá. Cuộc đời của anh tưởng chừng như vĩnh viễn khép lại, nhưng chỉ với một chút niềm tin trong anh bừng sáng, một lòng sám hối chân thành, đã khiến cửa trời rộng mở, đón tiếp anh thênh thang bước vào. Chính từ khi anh trộm lành nhận ra người tử tù bị đóng đinh là vua trời, nhận ra sự sống trong cõi chết, phục sinh trong tử nạn, thì Vua Giêsu tiếp tục lan rộng cuộc chinh phục đến viên đại đội trưởng khiến ông cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: "Người này quả thật là công chính" (Lc 23, 48). Và trong suốt 2000 năm qua, Người vẫn luôn đón nhận vào trong vương quốc tình yêu của Người; những thần dân biết duy trì tinh thần hiệp nhất, phục vụ và yêu thương. Chỉ những ai biết sám hối ăn năn, tin nhận vào quyền năng và tình thương của Chúa như anh trộm lành, môi được vào trong vương quốc của Người. Chỉ những người biết kính sợ Thiên Chúa và tin tưởng vào sự sống đời sau mới được ban cho Nước Trời. * Lạy Chúa, xin cho đức tin chúng con đủ mạnh để thấy Chúa không ngừng lôi kéo cả thế giới về với Người. Xin dạy chúng con luôn cộng tác với Chúa để xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống này, nhờ biết đẩy lui sự dữ trên địa cầu, trong khi kiến tạo an bình và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc) * 4. Hai tên gian phi Các sách Tin Mừng ghi nhận rằng cùng bị đóng đinh chung với Chúa Giêsu hôm ấy còn có hai tên gian phi. Phần Tin Mừng theo thánh thì phân biệt có một người đã sám hối, còn người kia thì không. Chúng ta hãy xem xét từng người. Trước tiên là tên gian phi không sám hối. Hắn chẳng còn tình cảm, chẳng còn lương tri, chẳng còn nhân tính gì nữa cả. Bởi vì tới lúc sắp chết mà hắn cũng không chút hối hận. Ngay cả Chúa Giêsu cũng chẳng thể cứu hắn. Thực vậy, chẳng ai có thể cứu được người không chịu để cho mình được cứu. Tấm lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn có sẵn đấy, nhưng tối thiểu con người phải muốn đón nhận. Oscar Wilde viết: "Kẻ đang ở trong tình trạng nổi loạn không thể nhận được ơn sủng". Chúng ta nhìn sang tên gian phi sám hối. Nhiều người đã nghĩ rằng người này được cứu độ dễ dàng quá: sau một đời tội lỗi, anh ta chỉ cần nói với Chúa Giêsu một lời thôi thì được tha thứ hết. Anh đã ăn trộm mọi thứ, và cuối cùng lại ăn trộm luôn thiên đàng nữa. Có người khắt khe nghĩ rằng ít ra Thiên Chúa phải bắt anh ta ở trong luyện ngục một thời gian nào đó mới phải. Thực ra nếu tìm hiểu kỹ trường hợp anh ta, chúng ta sẽ thấy rằng anh đã làm được một việc không phải là nhỏ và cũng không phải là dễ: Khi bị treo trên thập giá, anh không buông theo khuynh hướng xấu có sẵn trong mình mà bực bội và bất mãn để rồi có những phản ứng như tên gian phi kia, là thù người và hận đời rồi chửi bới lung tung. Thay vào đó, anh nhìn lại chính cuộc đời của mình. Anh đã thấy gì? Thấy cả đời anh chỉ là một đống rác rưởi chẳng có chút gì tốt cả. Từ đó anh ý thức rằng mình đã làm hỏng tất cả: không phải chỉ làm hỏng nhiều việc, mà còn làm hỏng chính cuộc đời mình. Anh biết tội mình, anh nhận trách nhiệm về đời mình. Sau đó anh lên tiếng can gián tên gian phi kia đừng chửi rủa Chúa Giêsu nữa. Và anh quay sang kêu xin Ngài "Ông Giêsu ơi, khi nào Ông vào Nước của Ông, xin nhớ đến tôi". Người ta vẫn có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác chứ không chịu nhận trách nhiệm vào mình. Chuyện gì cũng nói "tại cái này", "bị cái khác", "do người này", "vì người nọ" v. v. Nhiều người còn viện vào khoa tâm lý mà ngụy biện rằng chẳng có gì là tội thực sự cả, tất cả chỉ do hoàn cảnh đẩy đưa; con người bị tác động bởi nhiều động cơ vượt tầm kiểm soát của mình. Người gian phi sám hối bị tác động bởi hoàn cảnh bên ngoài nhiều lắm chứ: những đau đớn thể xác làm anh khó chịu, những tiếng la ó của dân chúng làm anh tự ái, án tử hình thập giá làm anh nhục nhã Những thứ ấy đều xúi anh nổi loạn. Ngoài ra cái chết gần kề cũng xúi anh thất vọng: tới giờ phút này còn hy vọng gì sửa đổi tình thế được nữa; vả lại tội anh đã quá nhiều và quá rõ... Có thể sám hối được trong hoàn cảnh như thế không phải là một việc dễ. Tuy nhiên anh đã sám hối. Việc sám hối ấy đã mang lại cho anh chẳng những ơn tha thứ, mà còn cả thiên đàng. Người gian phi sám hối dạy cho chúng ta biết rằng: không bao giờ là quá trễ để quay về với Chúa, không tội nào là quá nặng để không được thứ tha, bao lâu ta còn thở là ta còn cơ hội để hưởng lòng thương xót Chúa. * 5. Chúa Giêsu là vua như thế nào? a. Làm vua có thể có nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều đình... mới là vua. Người ta vẫn nói: «vua dầu lửa», «vua xe hơi», «vua bóng đá», v. v... mặc dù những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai. Chúa Giêsu không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu theo nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ «vua». Trước hết, Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh viết: «Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành» (Ga 1, 3; xem 1, 10). Ngài là vua của thế giới, nên đến ngày chung cuộc, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị vua (Mt 25, 34). Thế gian này có nhiều nước, mỗi nước có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Vua của muôn vua. b. Đức Kitô là vua. Nhưng Ngài khác với các vua khác ở chỗ: để cai trị, các vua khác dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi người, mọi con dân của Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên (xem Ga 10, 11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà «Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4, 8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh chết trên thập giá một cách khổ nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền cai trị. c. Chúa Giêsu không chỉ là vua vũ trụ, vua của cả trần gian, mà Ngài còn là vua của tâm hồn mỗi người. Vì yêu thương, vị vua ấy ngự ngay trong thâm cung tâm hồn của mỗi người để sẵn sàng thi ân giáng phúc, ban sức mạnh, thánh hóa, làm cho họ ngày càng tốt đẹp, mạnh mẽ và hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, Ngài có làm được điều đó hay không còn tùy thuộc vào sự tự do chấp nhận và sự tự nguyện cộng tác của chúng ta. Ngài sẽ không làm được gì cho chúng ta nếu chúng ta không muốn Ngài làm, hoặc nếu chúng ta hoàn toàn thụ động không cộng tác gì vào công việc mà Ngài muốn làm cho ta. Để Ngài có thể hành động biến đổi ta nên tốt đẹp, mạnh mẽ, thánh thiện hơn, ta cần tôn Ngài làm vua tâm hồn mình, bằng cách: Trước tiên, phải thường xuyên ý thức về sự hiện diện của Ngài ở trong ta. Kế đến là ý thức rằng Ngài là tình thương, Ngài yêu thương ta hơn tất cả mọi người, và sẵn sàng làm tất cả những gì ta cần cho sự phát triển và hạnh phúc của ta. Đồng thời ý thức Ngài là sức mạnh toàn năng, có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi ta. Vì thế, ta nhường quyền làm chủ bản thân ta cho Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân ta. Ta không còn hành động theo ý riêng ta nữa, mà hoàn toàn hành xử theo ý của Ngài. Vì Ngài yêu thương ta, sáng suốt và khôn ngoan hơn ta rất nhiều, lại có khả năng làm tất cả những gì Ngài muốn, nên ta hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta cho Ngài. Và cuối cùng là luôn luôn sống trong bình an, hạnh phúc của một người được Đức Kitô yêu thương và phù trợ. Hãy hưởng niềm hạnh phúc của một người được Vua của cả trần gian này yêu thương và quan tâm săn sóc. Hãy tin tưởng và luôn luôn an tâm rằng nhờ quyền năng của Ngài, tất cả những gì xảy đến cho ta đều hết sức có lợi, đều trở nên vô cùng tốt đẹp cho ta, cho dù hiện nay ta chưa hiểu rõ. Nắm vững điều đó, ta sẽ thấy có Đức Kitô ngự trong tâm hồn mình là như có được một «cây đèn thần» trong tay, một «bùa hộ mạng» an toàn, một «vị thần bảo trợ» hữu hiệu, một «người tình chung thủy» luôn luôn ở với ta suốt cuộc đời. Lúc đó ta sẽ sung sướng cảm nghiệm được như thánh Phaolô: «Tôi làm được tất cả mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4, 13). (Nguyễn chính Kết) V. Lời nguyện cho mọi người Chủ tế: Anh chị em thân mến, khi bị đóng đinh trên thập giá, người trộm lành đã thưa với Chúa Giêsu: Lạy Ngài, khi vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi. chúng ta cũng mượn lời khẩn cầu ấy để thân thưa với Thiên Chúa là Cha chúng ta: 1. Hội thánh là một bà mẹ hiền / yêu thương hết thảy mọi con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử luôn nhớ đến những người nghèo khổ bất hạnh / và tìm mọi cách giúp họ sống xứng nhân phẩm của mình. 2. Chúa Giêsu Kitô là vị Vua đem lại hòa bình thật sự cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa tiêu diệt mầm mống chiến tranh / hận thù và bạo lực / để hết thảy mọi người được an cư lạc nghiệp. 3. Hiện nay / có một số anh chị em tận tụy hy sinh / phục vụ những người bị nhiễm HIV / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ơn nâng đỡ những sứ giả của tình thương / đang xả thân vì đồng loại của mình. 4. Chúa Giêsu là vị Vua nhân ái / luôn chia sẻ mọi vui buồn với thần dân của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn tin tưởng và phó thác cuộc đời cho vị vua đầy lòng nhân ái này. Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương mà Chúa đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con cũng biết yêu thương và giúp đỡ hết thảy mọi người như Chúa đã luôn luôn yêu thương và không ngừng nâng đỡ chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. VI. Trong Thánh Lễ - Trước kinh Lạy Cha: Trong ngày lễ kính Chúa Giêsu là Vua hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến trong cõi lòng mọi người. - Trước rước lễ: Vua Giêsu đã thương mời chúng ta đến dự tiệc của Ngài. Chúng ta hãy đến dự tiệc thánh trong tâm tình biết ơn và cảm mến. "Đây Chiên Thiên Chúa..." VII. Giải tán Trong khi chờ đợi ngày Chúa Giêsu hoàn toàn làm Vua toàn thể nhân loại, mỗi người chúng ta hãy cố gắng làm một công dân xứng đáng của Nước Chúa, đó là hằng ngày thực hiện giới luật yêu thương. 11. Đức Giêsu là Vua vũ trụ-- Lm Giuse Đinh Lập Liễm A. DẪN NHẬP. Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo hội dành để biệt kính Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ. Như vậy, năm Phụng vụ được mở đầu bằng 4 Chúa nhật Mùa Vọng, chuẩn bị đón nhận Con Chúa giáng trần; và Chúa nhật 34 thì tôn kính Đức Giêsu là vua cao cả của vũ hoàn. Nhưng danh hiệu và vương quyền của Ngài như thế nào? Dù Kinh Thánh kể rằng Ngài là “dòng dõi” vua Đavít, nhưng phải chăng Ngài cũng chỉ tương tự như Đavít? Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca mô tả cảnh Đức Giêsu bị treo trên cây thập giá giữa hai tên trộm cướp và bị mọi người nhạo báng. Hình ảnh này tạo cho ta một cảm tưởng rằng Ngài dường như bị thất thế, bị kết án như một tên tử tội, bị lăng mạ bởi chính các “thần dân” của mình. Nhưng với con mắt đức tin chúng ta thấy chính lúc ấy là lúc thành công, chính trong lúc ấy Ngài được Chúa Cha phong vương cho Ngài và Ngài đã làm lễ đăng quang trên chính thập giá đó. Ngài đã thành công ở chỗ hy sinh mạng sống mình để cứu chuộc loài người, đã hòa giải nhân loại với Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa Cha phong vương cho Ngài và đặt mọi sự dưới chân Ngài để Ngài làm bá chủ muôn loài. Ngài thực sự là vua và còn là vị Vua Cao Cả, độc nhất vô nhị, mãi mãi vượt trên mọi vua chúa ở trần gian và triều đại Ngài sẽ vô cùng cô tận. Khi sinh thời, Đức Giêsu đã phán:Ta là đường, là sự thật và là sự sống”, ai theo Ngài thì không sợ bị lạc lối. Vì thế, chúng ta hãy công nhận vương quyền của Ngài, tin theo Ngài và góp phần xây dựng vương quốc Ngài bằng đời sống tin yêu và phục vụ. Con đường về Nước Trời chính là nỗ lực chu toàn bổn phận đối với bản thân, gia đình và xã hội. Không có bổn phận nào là đơn giản và dễ dãi. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn thấu hiểu và phù trợ ta qua lời chuyển cầu của Đức Maria và các thánh. Đức Kitô đã rộng mở cánh cửa tình yêu bằng hy sinh trọn vẹn của Ngài cho chúng ta. B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. + Bài đọc 1: 2Sm 5,1-3. Đoạn này thuật lại cuộc phong vương lần thứ hai cho Đavít. Sau khi vua Saulê chết, tiên tri Samuel đã nhân danh Thiên Chúa xức dầu cho Đavít để ông làm vua các chi tộc ở Giuđêa. Sau một thời gian, vì mộ mến tài đức của Đavít, các chi tộc miền Bắc vốn trung thành với dòng tộc vua Saulê cũng phong Đavít làm vua nữa. Từng bước một Đavít đã trở nên vua của 12 chi tộc Israel. Nhờ bản lĩnh hiếm có, ông đã giữ cho Israel được thống nhất. Đức Kitô là Đavít mới nhờ thập giá sẽ kiện toàn sự thống nhất hoàn hảo và mãi mãi của dân Thiên Chúa. + Bài đọc 2: Cl 1,12-20. Thánh Phaolô trích dẫn một bài thánh thi trình bầy địa vị của Đức Giêsu Kitô. Theo đoạn thư này, tư tưởng được trình bầy cho tín hữu Côlôssê như sau: - Phải cảm tạ Thiên Chúa Cha, Đấng đã qui tụ họ về Vương quốc của Con Người. - Địa vị tối thượng của Đức Kitô: Ngài vượt trên vũ trụ vì Ngài là Đấng sinh thành ra vũ trụ và cùng đích của muôn loài. - Đức Giêsu là nguồn mạch cứu độ vì Ngài đã làm hòa vũ trụ với Thiên Chúa. Như vậy Ngài đóng vai trò trung tâm và là Đấng trung gian duy nhất thâu tóm mọi kế hoạch của Thiên Chúa Cha. + Bài Tin mừng: Lc 23,35-43. Trong bài trình thuật này, thánh Luca mô tả Đức Giêsu chịu treo trên thập giá với đám khán giả hỗn độn. Phía dưới chân thập giá có những khán giả: - Dân chúng nhìn một cách bàng quan như không liên quan gì đến mình. - Các thủ lãnh Do thái chế nhạo: “Hắn đã cứu người khác thì hãy cứu lấy mình đi, nếu hắn là Đức Kitô”. - Lính canh cũng chế diễu: “Nếu ông là vua dân Do thái thì hãy cứu lấy mình đi”. Trên đầu Ngài có bảng chữ: Đây là vua dân Do thái (INRI). Bên cạnh Ngài là hai tên trộm: một tên hùa theo đám đông chế nhạo Ngài, tên kia thì công nhận Ngài là vua. Hình ảnh nói lên hai tên trộm lành và dữ này cho ta thấy rằng ơn cứu độ đến từ Đấng bị đóng đinh. Việc Đức Kitô nhận người trộm lành vào vương quốc Ngài, là dấu chỉ tất cả các tín hữu tin vào Chúa sẽ được vào Nước Trời. Qua cái chết của Đức Kitô,”Vua người Do thái”, Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô trở nên nguồn suối ơn cứu chuộc cho cả và loài người ta. C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Đức Giêsu là Vua chúng ta I. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA. 1. Kinh Thánh hé mở cho chúng ta. Trong chu kỳ năm Phụng vụ, đã có ba ngày Giáo hội long trọng nhắc đến tước hiệu “Vua” của Đức Kitô, tuy không rõ ràng tôn vinh tước hiệu ấy.. - Lần thứ nhất, trong ngày lễ Hiển linh: “Khi Đức Giêsu sinh ra tại Belem, thời vua Hêrôđê trì vì, có mấy nhà đạo sĩ từ phương đông đến Giêrusalem, và hỏi: “Đức vua dân Do thái mới sinh ra hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người” (Mt 2,1-2). - Lần thứ hai trong Tuần Thánh, với việc Đức Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem (Mc 11,1tt). Rồi trước tòa án Philatô, ông cho Đức Giêsu ngồi ở Gabata, ghế dành riêng cho quan tòa. Như vậy, vô tình Philatô công nhận Ngài là vua. Chính Ngài cũng khẳng định: “Tôi là vua dân Do thái” (Ga 18,37). Philatô cũng truyền cho người ta viết tấm bảng trên đầu thập giá với hàng chữ: “Giêsu Nazareth Vua dân Do thái” (Ga 19,19) - Lần thứ ba, trong ngày Đức Giêsu lên trời, Hội thánh tôn vinh vua oai phong đi vào vinh quang và chờ đợi ngày Người lại đến (Mc 16,19) để phán xét kẻ sống và kẻ chết trong ngày cánh chung. 2. Nhiều người công nhận Ngài là vua. Trong đoạn Tin mừng ta thấy người ta vô tình hay hữu ý nhận Đức Giêsu là vua: Dân chúng nói Ngài là vua – Kỳ mục nói Ngài là vua – Philatô viết Ngài là vua – Kẻ trộm lành cũng tuyên xưng Ngài là vua – cùng cả và trời đất cũng nói lên Ngài là vua, thì chắc chắn Ngài là vua và Ngài phải là vua nữa. Chúng ta có thể trích ra vài câu Kinh Thánh để làm chứng: - Câu 37: “Nếu ông là vua dân Do thái, ông hãy cứu mình đi”. - Câu 38: Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy lạp, La tinh và Do thái như sau: “Người này là vua dân Do thái”. - Câu 42: “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Các câu này nói lên vương quyền của Đức Kitô, Luca nhắc đi nhắc lại để nêu cao vương quyền đó. 3. Ngày đăng quang của Đức Giêsu. Nghi thức phong vương thường là thầy thượng phẩm nhân danh Thiên Chúa xức dầu tấn phong ai làm vua trước mặt đông đảo dân chúng chứng kiến và nhiệt liệt tung hô (Bài đọc 1). Nhưng, nghịch lý thay, Đức Giêsu được phong vương trên thập giá với bản án trên đầu: “Đây là vua dân Do thái”. Ngai vàng là cây thập giá. Từ trên cao, Chúa nhìn xuống thần dân, giang hai tay ra để ôm lấy dân Ngài. Vương miện là vòng gai cuốn trên đầu. Ao cẩm bào là thân hình trần trụi ô nhục. Những người tham dự: kẻ thù, Mẹ và một số môn đệ. Tiếng tung hô là những tiếng đả đảo: “đóng đinh nói đi”, và những tiếng khóc nức nở của người thân. Cảnh trí: núi Sọ và bầu trời u ám. Diễn từ nhận chức: “Lạy Cha xin hãy tha cho họ” và sau cùng: “Mọi sự đã hoàn tất”. Trước đây Đức Giêsu đã từng tuyên bố: “Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32). Trên thập giá, kẻ trộm lành đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu thế, là Vua vũ trụ, anh đã nhận ra tội lỗi của mình, tỏ lòng sám hối và đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42) và như vậy anh muốn thuộc về vương quốc Thiên Chúa. Và Đức Giêsu hứa với anh: “Ta bảo thật ngươi: “Ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (Lc 23,43). II. THẾ NÀO LÀ VUA? Theo quan niệm Nho giáo, người cầm quyền chính trị là vua. Vua được gọi là Con Trời hay Thiên tử. Chữ VƯƠNG (Vua) gồm có 3 nét ngang và một nét dọc, Ba nét ngang là chữ Tam hay quẻ Càn, tượng trưng cho Tam tài hay ba đạo: Thiên đạo, Địa đạo và Nhân đạo. Sổ dọc đứng giữa ngụ ý Vua là kẻ thụ mệnh Trời, đứng ra dung hòa ba đạo: Trời, Đất và người. Dung hòa ba đạo ấy thành một duy nhất. Khổng Tử nói: “Nhất quán tam vi vương” là thế. Du khách đến Huế không thể quên được đàn Nam giao, cũng như đến Bắc kinh không thể bỏ qua Điện Trời. Chính nơi đây, nhà vua thay mặt toàn dân tế Trời. Tại Huế, đàn Nam giao, cửa Ngọ môn và Điện Thái hòa cùng nằm ngay trên một đường thẳng. Điện Thái hòa là nơi vua cùng triều đình lo việc phục vụ dân chúng. Cửa Ngọ môn xây hướng về nam, nơi mặt trời lên cực điểm, vào giờ Ngọ, tức là 12 giờ trưa, giờ mặt trời “đứng bóng”, giờ mà hình và bóng nên một. Từ điện Thái Hòa, qua Ngọ môn, vua sẽ tiến thẳng về phía nam để đến đàn Nam giao, thay dân tế trời. Sau khi ăn chay nằm đất, vua sẽ tiến lên lễ đàn. Trước tiên vua sẽ lên đàn hình vuông tượng trưng đất, sau đó mới lên đàn hình tròn, tượng trưng Trời để dâng lễ tế. Đức Kitô Vua vũ trụ, Vua của chúng ta, là chính Mặt Trời đúng ngọ, là Mặt Trời lên cực điểm, và Ngài cũng muốn chúng ta nên một với Ngài, như hình và bóng nên một vào giờ chính ngọ. Đức Kitô, Vua vũ trụ, Vua chúng ta đã thay chúng ta dâng lễ cho Chúa Trời, và nay, bên cạnh Chúa Cha, vẫn hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta: “Đức Giêsu, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. Do đó, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 7,24-25). Người Việt nam chúng ta rất kính trọng vua. Người dân mình kính vua vì vua là “Thiên Tử”, là Con Trời, là người có “thiên mệnh”, là “Dân chi phụ mẫu” – cha mẹ của dân. Một vị vua sẽ được kính tôn là minh quân và thiên tử nếu vị ấy thực sự thương dân như cha mẹ thương con, xả thân lo cho dân cho nước như cha mẹ hy sinh cho con cái, đôi khi còn dám nghĩ “hay để trẫm nộp mình cho giặc để cứu muôn dân”? như vua Trần nhân Tông xưa kia. Vua Kitô của chúng ta không những là “Thiên tử” trong tước hiệu, mà còn là “Con Trời” trong bản tính. Mừng kính, tôn vinh Chúa Giêsu là vua vũ trụ, chúng ta cũng được mời gọi làm vua như Ngài. Chúng ta là Alter Christus (Chúa Kitô khác), là Đức Kitô toàn thể, là nhiệm thể Đức Kitô. Chúng ta có nhiệm vụ hầu hạ mọi người, dấn thân phục vụ đồng loại. III. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA CHÚNG TA. 1. Tại sao lại gọi Đức Giêsu là vua? Chúng ta thường nghe người ta nói: Sư tử là vua vì nó là con vật mạnh mẽ nhất trong muôn loài thú. Ta cũng thấy người ta gọi ông vua dầu lửa, vua thép, vua nhạc rock… Đó là những nhân vật tài giỏi nhất, làm bá chủ về một lãnh vực nào đó. Tương tự như thế, Đức Giêsu được gọi là “vua”, vì Ngài là một con người hoàn hảo nhất, cao thượng nhất, tài giỏi và quyền năng nhất. Nhờ đã hạ mình vâng lời chịu chết, một cái chết thập giá, mà Ngài đã được Thiên Chúa siêu tôn và ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu là: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (x. Pl 2,8-9). 2. Vương quyền của Đức Kitô. Thiên Chúa đã đặt Đức Giêsu làm vua vũ trụ, đặt mọi sự dưới quyền điều khiển của Ngài. Ngài là vua vĩnh cửu và truyệt đối, vương quyền Ngài không có giới hạn. Chúng ta vẫn tuyên xưng trong kinh Tin kính: “Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng”! Vương quốc của Ngài không bị giới hạn bởi không gian và thời gian như các vua chúa ở trần gian này, nước Ngài là nước thiêng liêng và vĩnh cửu. Truyện: Vua Cảnh Công nước Tề. Vua Cảnh Công nước Tề, một hôm lên chơi núi Ngưu Sơn. Nghĩ rằng có ngày sẽ phải chết và giang sơn gấm vóc lại lọt vào tay kẻ khác, vua liền trào nước mắt thương tiếc. Đoàn tùy tùng thấy vua khóc cũng khóc theo. Duy chỉ có An Tử là chúm miệng cười. Vua chau mày hỏi: - Tại sao ai cũng khóc cả, mà nhà ngươi lại cười? An Tử trả lời: - Nếu các đời vua trước mà còn sống, thì vua ngày nay hẳn còn phải mặc áo tơi nón lá. Nhờ thế sự thăng trầm mà nay đến lượt vua được mặc áo gấm, đội mũ ngọc. Thế mà vua lại khóc. Thấy Đấng làm vua bất nhân, bầy tôi siểm nịnh, tôi không cười sao được? 3. Đức Giêsu là vua thế nào? Cứ nhìn vào lịch sử nhân loại sẽ thấy vua Trụ và vua Kiệt là những hôn quân, một Tần thủy Hoàng bạo ngược đến độ đốt sách, giết các nhà trí thức, học trò giỏi trên 2000 mạng để dễ bề cai trị; một Néron hung tàn vì thỏa mãn lòng kiêu căng đã đốt sạch đế đô La mã để có cớ xây lại huy hoàng hơn; một Napoléon tham vọng đã đẩy hàng triệu người vào cái chết và gần đây một Hitler hiếu chiến hiếu sát đã lôi kéo cả thế giới vào một cơn lốc chém giết, tàn phá nhau kinh khủng. Và biết bao vua chúa quan quyền khác đã cai trị thần dân bằng cách bắt họ lụy phục mình hơn là phục vụ họ. Vương quyền dầu lớn lao, tuyệt đối, nhưng Đức Giêsu trước sau chỉ có một đường duy nhất là yêu thương và phục vụ mà thôi. Chính vì tình yêu vời vợi như thế, Đức Kitô đã chấp nhận chết cho thần dân của mình. Ngài hiến thân hy sinh cho cả Hội thánh, Như vậy, qua cuộc hiến tế của Ngài, chúng ta nhận ra, vua Kitô không chỉ là Vua hiền lành, nhân từ, Ngài còn là vị vua hạ mình đến tận cùng. Đến nỗi khi nhìn ngắm sự hạ mình của Ngài trong cuộc hiến tế thương đau, ta chỉ còn biết lặng người đi, chiêm ngắm, thờ lạy, cảm tạ, chúc tụng, nguyện một lòng mang ơn Ngài và trung thành theo Ngài đến trọn cuộc đời. Truyện: Chiếc nhẫn. Cách đây không lâu, những người thợ lặn đã phát hiện ra một con tầu bị chìm cách đây 400 năm ngoài biển khơi ở vùng phía bắc Ireland. Một trong những kho tàng họ đã tìm thấy trên tầu là một chiếc nhẫn cưới của một người đàn ông. Khi họ đánh bóng, họ thấy trên mặt chiếc nhẫn khắc hình một bàn tay đang nắm giữ một trái tim. Phía dưới có khắc hàng chữ như sau: “Em không còn gì hơn để cho anh” (I have nothing more to give you). Trong tất cả những kho tàng đã tìm thấy trên con tầu, không có sự gì làm cảm động những người thợ lặn cho bằng chiếc nhẫn và những lời cao đẹp của tình yêu đó. Hàng chữ được khắc trên chiếc nhẫn –”Ta không còn gì để cho con” – có thể được đặt trên thập giá của Đức Giêsu. Vì từ trên thập giá đó, Ngài đã cho chúng ta tất cả những gì Ngài có. Ngài cho chúng ta tình yêu và mạng sống. Ngài cho chúng ta tất cả những gì một người có thể trao ban cho người mình yêu: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga Ga 15,13). Chúa Giêsu Kitô là Vua Tình yêu. 4. Ai là vị vua xứng đáng nhất? Trong bài đọc 2, thánh Phaolô trích dẫn một bài thánh thư trình bầy địa vị của Đức Giêsu Kitô: Đức Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu mà muôn vật được tạo thành và nhờ cái chết của Ngài trên thập giá mà mọi người được giao hòa lại với Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô chỗi dậy từ cõi chết và đặt bên hữu Ngài trên trời. Như vậy, Ngài đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh; mà Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1,20-23). Như thế, Đức Giêsu là vua tối cao trên toàn thể vũ trụ, Ngài là người xứng đáng nhất để nhận lấy cái vinh dự đó. Truyện: Người xứng đáng nhất. Vào thời thập tự viễn chinh, nhằm bảo vệ thánh địa và đảm bảo an ninh cho khách hành hương, vua Philipphê của nước Pháp đã làm một cử chỉ lạ thường. Trước mỗi lần lên đường, ông tháo gỡ triều thiên đang đội trên đầu, rồi đặt nó lên một chiếc bàn và ghi dòng chữ như sau: “Dành cho người nào xứng đáng nhất”. Sau đó, ông qui tụ tất cả tướng lãnh, các hiệp sĩ, những người hầu cận lại trước mặt ông và yêu cầu họ hãy quên ông là vua và là người chỉ huy của họ. Ông nói với mọi người rằng chiếc vương miện được dành cho người nào tỏ ra xứng đáng nhất trong cuộc chiến đấu. Cuộc viễn chinh đã hoàn tất cách vẻ vang, mọi người hát khúc khải hoàn trở về quê hương. Họ tụ tập chung quanh vương triều và một tướng lãnh tiến lại cầm lấy triều thiên đội lên đầu của Philpphê và nói: “Tâu bệ hạ, bệ hạ là người xứng đáng nhất”. Chỉ có một người xứng đáng nhất được tuyên xưng tước hiệu là vua, đó là Đức Giêsu Kitô. Chỉ có mình Ngài là vua đích thực, bởi vì duy mình Ngài mới có thể mang lại sự sống cho con người, duy mình Ngài là chủ của lịch sử nhân lọai, duy mình Ngài là Đấng xứng đáng đội triều thiên vương giả. Ngài là vua duy nhất và đúng nghĩa nhất. Ngài là vua, không những vì Ngài là Đấng trao ban sự sống, mà còn vì Ngài đã thể hiện vương quyền một cách đúng nghĩa nhất. IV. HÃY TIN THEO ĐỨC KITÔ VUA. 1. Chấp nhận vương quền của Chúa. Hôm nay mỗi người cần tự hỏi mình có chấp nhận vương quyền của Chúa không? Ta có để cho Chúa làm chủ tâm hồn và đời sống chưa? Ta tuyên xưng và loan truyền vương quốc của Chúa thế nào? Nhận Chúa là vua vũ trụ xem ra là một việc dễ dàng, còn để Chúa làm chủ tâm hồn và đời sống xem ra không phải là một việc dễ dàng. Đức Giêsu đã được Thiên Chúa Cha phong làm vua vũ trụ và dĩ nhiên cũng là vua lòng mọi người. Chúng ta chỉ có hai thủ lãnh để theo: một là Chúa Giêsu, hai là ma qủi. Chúng ta phải chọn một trong hai, hoặc là vị này hoặc là vị kia, là Chúa hay là ma qủi. Trong vấn đề này chúng ta không thể trung lập để “bắt cá hai tay”, bởi vì người ta thường nói: Một nhà hai chủ không hòa, Hai vua một nước, ắt là không yên. Vậy chúng ta phải theo vị thủ lãnh nào? Chắc chắn chúng ta chọn Đức Giêsu là vua bởi vì tất cả chúng ta đã được chịu phép rửa tội. Qua phép Rửa tội, mỗi người chúng ta được thông phần cái chết và sự sống của Chúa Giêsu, được tham dự vào chức năng làm vua của Chúa Kitô. Đúng là: “Con vua thì lại làm vua”. 3. Làm cho vương quốc Ngài phát triển. Ngày xưa, tiên tri Giêrêmia cũng nhắc đến những yêu tố làm cho vương quyền Thiên Chúa phát triển qua sự nhân nghĩa, công bình và chính trực (Gr 9,23). Ngày nay, Giáo hội cũng thúc giục chúng ta phải làm cho vương quốc Ngài được phát triển nơi mọi người, mọi dân tộc: “Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”. Vì thế, trong hiến chế Lumen gentium, công đồng Vatican II dạy: “Vì thế, với ân huệ của Đấng sáng lập, và trong khi trung thành tuân giữ các giới răn bác ái, khiêm nhường và từ bỏ, Giáo hội đã lãnh nhận sứ mạng truyền giáo và thiết lập Nước Chúa Kitô và Nước Thiên Chúa trong mọi dân tộc; Giáo hội là mầm mống và khai nguyên Nước ấy trên trần gian. Đang lúc từ từ phát triển, Giáo hội vẫn khát mong Nước ấy hoàn tất và thiết tha hy vọng, mong ước kết hợp với vua mình trong vinh quang” (L.G. đ 5). Sách Khải huyền đã ca ngợi: “Lạy Đức Kitô, Vua vũ trụ, chỉ có Ngài mới xứng đáng nhận vương quyền, vinh quang và vinh dự, vì “Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào cứu chuộc muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước, mọi dân” (Kh 5,9). Giáo hội đặt lễ Chúa Kitô Vua vào cuối năm phụng vụ như một lời tuyên xưng rằng Chúa là một Vương tướng mà chúng ta hết thảy quân đội dưới bóng cờ Ngài, và Ngài hướng dẫn tất cả về cùng Chúa Cha. Ngài đã chịu đau khổ nhưng Ngài đã toàn thắng trong vinh quang. Ngày xưa, trên đầu cây thánh giá có một tấm bảng ghi: “Đây là vua dân Do thái”, khiến người ta qua lại mỉm cười khinh chê. Ngày nay cả Giáo hội tôn vinh, giữa công trường thánh Phêrô, có một cột đá khổng lồ cao 25 mét, ngày xưa ở một đền bụt thần được đưa về đây để tượng trưng cho sự toàn thắng của Chúa Cứu thế, dưới cây thánh giá có khắc ba hàng chữ bằng tiếng La tinh: CHRISTUS VINCIT: Chúa Kitô toàn thắng. CHRISTUS REGNAT: Chúa Kitô quản suất. CHRISTUS IMPERAT: Chúa Kitô thống trị. Đó là những lời tung hô của Giáo hội trong ngày lễ hôm nay. 12. Đức Giêsu- Vua Tình Yêu--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ. Ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính trọng thể Đức Yêsu Kitô Vua. Vua: người trổi vượt trên tất cả Vua là người trổi vượt hơn người khác, thắng được tất cả, nên có quyền trên người khác. Lịch sử Việt Nam cho thấy, sau “ngàn năm nô lệ giặc Tàu” Đinh Bộ Lĩnh là người đầu tiên thắng được các sứ quân và là vị vua đầu tiên “Đinh Tiên Hoàng”. Ngày nay khi người ta nói vua bóng đá, người ta nhắc tới người chơi bóng đá rất giỏi và trổi vượt hơn người khác, chẳng hạn như Pélé và Maradona. Khi nhắc tới môn cờ vua, người ta nhắc tới tên những vua cờ như Karpov và Kasparov. Đức Yêsu là Vua. Ngài là vua các vua, ngài làm vua cả hoàn vũ này, vì mọi quyền năng trên trời dưới đất đều đã được ban cho Ngài (Mt.28, 18). Đức Yêsu chấp nhận thân phận con người trọn vẹn, Ngài bất lực như tất cả mọi người khi Ngài đang sống đời tại thế, nhưng khi Ngài chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá, Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại, và ban cho Ngài quyền năng trên tất cả trời và đất. Đức Yêsu là vua cả hoàn vũ này. “Chính để anh em được tự do mà Đức Yêsu đã giải phóng anh em” (Gl.5, 1). Với tình yêu và bằng tình yêu, Đức Yêsu đã giải phóng chúng ta khỏi tất cả, để chúng ta được tự do và làm chủ tất cả. Tình yêu giải phóng chúng ta khỏi nô lệ, và giúp chúng ta làm chủ, làm vua và là người tự do. Đức Yêsu: người “yêu” trổi vượt tất cả những người đang yêu Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu ở Colôsê cho thấy Thiên Chúa biểu lộ quyền năng và tình yêu của Ngài nơi Đức Yêsu. Đức Yêsu là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Nhờ Ngài, mọi vật được tạo thành, hữu hình hay vô hình. Mọi vật được tạo thành nhờ Ngài và cho Ngài. Ngài là đầu của Giáo Hội, là người đầu tiên sống lại từ cõi chết. Ngài hoà giải tất cả với Thiên Chúa trong máu Ngài. Đức Yêsu trổi vượt trên tất cả vì yêu. Ngài là vua tình yêu, không ai yêu mãnh liệt như Ngài. Ngài dám chết, để người Ngài yêu được sống. Ngài hiến mạng Ngài, để thành lương thực nuôi dân Ngài. Ngài để lại cho họ một mệnh lệnh rất đơn sơ: hãy yêu nhau như Ngài yêu họ: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ của thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga.13, 35). Ngài không đòi con người làm điều gì khác ngoại trừ yêu thương, ngài muốn tất cả những người thuộc về Ngài làm mọi công việc vì yêu thương. “Yêu thương là chu toàn tất cả lề luật”. Trước những lời nhạo báng của những người ghét Ngài, Ngài vẫn không oán hận. Ngài tha thứ. Ngay trong những lúc cùng quẫn nhất, Ngài vẫn luôn độ lượng, quên mình để yêu thương người khác: “hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”. Lời của Đức Yêsu cũng là lời tình yêu, đem lại an ủi và ban bình an. Con vua lại được làm vua: chúng ta được mời gọi làm vua Vua là nét đặc trưng của Thiên Chúa. Thiên Chúa có quyền trên tất cả, Ngài thống trị vũ trụ, vì vũ trụ đều do Ngài tạo dựng, tất cả phải tùng phục Ngài. Thiên Chúa khi tạo dựng nên con người, Ngài đã trao cho con người sứ mạng và quyền thống trị trên cá biển chim trời (St.1, 28). Làm chủ vũ trụ này, là sứ mạng của con người và của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ngài tạo dựng chúng ta qua cha mẹ mỗi người chúng ta. Ngài không tạo dựng chúng ta như những người nô lệ, nhưng như những người tự do, để chúng ta làm chủ vũ trụ này, để chúng ta được cai trị vũ trụ này. “Con vua lại được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Chúng ta là con Thiên Chúa, Ngài cho chúng ta quyền thống trị trên mặt đất, và Ngài muốn chúng ta làm chủ vũ trụ này với lý trí và tài năng Ngài ban cho chúng ta. “Được làm vua, thua làm giặc”. Người thắng, làm chủ, làm vua. Người thua, làm nô lệ, làm tôi đòi. Thiên Chúa muốn chúng ta làm chủ, Ngài không muốn chúng ta làm nô lệ, Ngài mời gọi chúng ta chiến thắng chính con người chúng ta, chiến thắng những khuynh chiều xấu nơi mỗi người. Nếu chúng ta thua, chúng ta làm nô lệ cho những khuynh chiều hạ đẳng, chúng ta làm nô lệ xác thịt, nô lệ tiền bạc, nô lệ danh vọng hão huyền. Thiên Chúa muốn chúng ta chiến thắng, Ngài muốn chúng ta làm vua với Ngài, với Đức Yêsu Kitô. Câu hỏi gợi ý chia sẻ: 1. Điều gì quý nhất Đức Yêsu đã làm cho bạn? 2. Cách hành xử của bạn có giống cách hành xử của Đức Yêsu không, khi có ai chọc tức làm cho bạn muốn nổi khùng, hoặc khi bạn bị oan ức? Trên đời, liệu có ai có cách hành xử giống cách hành xử của Đức Yêsu không? 3. Nếu được gọi Đức Yêsu với một tước hiệu mà bạn ưng ý nhất, thay vì gọi Đức Kitô Vua thì bạn gọi Ngài bằng tước hiệu nào? Ngày 19 tháng 11 Năm 2022 Bài liên quan CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY Năm C CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY-C 03.04.2022 – CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY Năm C CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT LỄ LÁ- C 17.04.2022 - CHÚA NHẬT PHỤC SINH Năm C