Sống đẹp Hy Vọng: Cánh Cửa Mở Ra Vĩnh Cửu Khi nghe đến từ “hy vọng,” chúng ta thường nghĩ ngay đến tương lai. Suy cho cùng, tôi chỉ có thể "hy vọng" về điều gì đó mà mình chưa có, đúng không? Không hẳn, nếu bạn là một Kitô hữu. Hy vọng, với tư cách là một nhân đức thần học, gắn chặt với đức tin - điều mà Thư gửi tín hữu Do Thái định nghĩa là “hiện thực của những điều ta hy vọng” và “bằng chứng cho những điều ta không thấy” (11:1). Mặc dù bản Kinh Thánh New American Bible có thể đã dịch từ hypostasis (“bản thể”) thành “hiện thực” một cách hơi rộng, nhưng đó vẫn là một cách hiểu hợp lý về ý nghĩa thiêng liêng của văn bản thánh. Điều cốt lõi ở đây là: nhờ đức tin, chúng ta đã tham dự vào chính tương lai mà mình đang mong đợi. Như Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã diễn tả một cách tinh tế: “Nhờ đức tin, chúng ta đã có trong mình những điều mà ta hy vọng: một đời sống trọn vẹn và chân thật. Và chính vì điều đó đã hiện hữu trong chúng ta, sự hiện diện này tạo nên một sự chắc chắn: điều phải đến chưa xuất hiện trong thế giới hữu hình, nhưng bởi vì nó đã bắt đầu và đang vận động trong chúng ta, một sự cảm nhận nào đó về nó đã thành hình ngay từ bây giờ.” (Spe Salvi, 7) Nói cách khác, ơn cứu chuộc mà Đức Kitô đã thực hiện cho chúng ta bao trùm cả quá khứ, hiện tại và tương lai - nhưng theo một cách vượt lên trên tất cả, bởi Thiên Chúa không bị giới hạn bởi thời gian. Thực tế, khái niệm thời gian kỳ lạ hơn chúng ta nghĩ. Quá khứ từng tồn tại nhưng giờ đã qua đi, tương lai thì chưa từng hiện hữu, vậy chúng ta chỉ có hiện tại. Nhưng nếu hiện tại - vốn từng là tương lai - lại ngay lập tức trở thành quá khứ, thì thật khó để xác định chính xác “hiện tại” thực sự là gì. Thánh Augustinô đã suy tư về nghịch lý này trong Tự thú (Quyển XI), như một sự chuẩn bị để hướng tâm trí chúng ta đến một mầu nhiệm lớn lao hơn - đó là sự vĩnh cửu - và kết luận rằng chúng ta chỉ có thể hiểu ơn cứu chuộc qua lăng kính của cõi vĩnh hằng. Hy vọng Kitô giáo: Quá khứ, hiện tại và tương lai đan xen Chính khía cạnh vĩnh cửu của ơn cứu chuộc là trọng tâm trong giáo huấn của Đức Benedict XVI về hy vọng trong Spe Salvi (2007). Dù thông điệp này không nhắc đến Jürgen Moltmann - một đồng nghiệp cũ của ngài tại Đại học Tübingen - nhưng có thể xem đó như một lời đáp lại thần học hy vọng của Moltmann, vốn thường bị chỉ trích vì chỉ tập trung vào tương lai mà chưa đủ chú trọng đến những gì đã được hoàn thành trong hiện tại qua cuộc Khổ nạn, cái chết và sự Phục sinh của Đức Kitô. Nếu Thiên Chúa đảm bảo rằng những gì Ngài hứa sẽ thành sự thật, và nếu Ngài chỉ hành động qua chúng ta, thì việc hiện thực hóa lời hứa của Ngài hoàn toàn phụ thuộc vào chúng ta. Moltmann viết: “Bởi thế, đức tin, khi lớn lên thành hy vọng, không đem lại sự an yên mà là sự bất an, không dẫn đến kiên nhẫn mà là thiếu kiên nhẫn. Nó không làm dịu trái tim bất an, mà chính nó lại là trái tim bất an trong con người. Những ai hy vọng nơi Đức Kitô không thể chấp nhận thực tại như nó vốn có... Bình an với Thiên Chúa đồng nghĩa với xung đột với thế gian, vì lời hứa về tương lai cứ không ngừng đâm thấu vào thực tại chưa hoàn thành của hiện tại.” Năm 1968, sinh viên Đại học Tübingen - đúng hoặc sai - đã hiểu tư tưởng này theo cách rằng họ không thể chấp nhận hiện tại thêm nữa, và đã đến lúc hành động. Họ tham gia vào làn sóng biểu tình khắp châu Âu, mang theo niềm tin rằng họ không thể “chịu đựng thực tại như nó vốn có.” Cao trào của phong trào này chính là khi một sinh viên bước lên cướp micro ngay giữa bài giảng của một thần học gia lỗi lạc tên Joseph Ratzinger (sau này là Giáo hoàng Benedict XVI), bởi anh ta tin rằng cách duy nhất để biến hy vọng thành hiện thực là thông qua một cuộc cách mạng Marxist. Trải nghiệm ấy đã khắc sâu trong tâm hồn Ratzinger, khiến ngài lập luận trong Spe Salvi rằng chúng ta cần sự kiên nhẫn, và chúng ta nên tìm được sự bình an, bởi vì nhờ đức tin vào Đức Kitô Phục sinh, chúng ta có thể chấp nhận thực tại như nó vốn có, ngay cả khi chúng ta nỗ lực không ngừng để đưa tình yêu Thiên Chúa vào thế gian. Theo Benedict, “đức tin không chỉ đơn thuần là một khát vọng cá nhân hướng về những điều chưa đến.” Ngược lại, đức tin “ban cho chúng ta ngay lúc này một phần thực tại mà chúng ta đang chờ đợi, và thực tại này trở thành một ‘bằng chứng’ cho những điều chưa thấy” (Spe Salvi, 7). Quá khứ - tức là cái chết và sự Phục sinh của Đức Kitô - đặt nền tảng cho tương lai - tức là sự quang lâm của Ngài - và chúng ta thực sự tham dự vào điều đó ngay bây giờ, qua ân sủng bí tích. Benedict tiếp tục: “Đức tin kéo tương lai vào hiện tại, để nó không còn chỉ là ‘chưa đến.’” Hành động trong hy vọng Nhưng nếu tương lai đã hiện diện trong hiện tại, liệu có phải Kitô hữu được miễn trừ khỏi trách nhiệm hành động trong thế giới này? Nếu “điều chưa đến” đã là “bây giờ,” còn gì để thay đổi? Benedict giải thích rằng chúng ta có mọi lý do để hành động trong hiện tại, miễn là ta hiểu đúng nguồn gốc thực sự của hành động ấy. Ngài viết: “Mọi hành động nghiêm túc và ngay thẳng của con người đều là hy vọng trong hành động” (35). Nỗ lực mang tình yêu Đức Kitô vào thế giới giúp chúng ta và người khác nhận ra một tương lai đã có mặt, nhưng chưa hoàn toàn hiện thực hóa. Với ký ức về Tübingen trong tâm trí, Benedict cảnh báo: “Những nỗ lực hàng ngày của chúng ta, dù trong cuộc sống cá nhân hay trong công cuộc xây dựng tương lai thế giới, đều có thể khiến ta kiệt sức hoặc rơi vào cực đoan, trừ khi chúng ta được soi sáng bởi ánh sáng của một niềm hy vọng lớn lao - một niềm hy vọng không thể bị hủy diệt dù bởi những thất bại nhỏ bé hay những biến cố lịch sử quan trọng.” (35) Nói cách khác, ngay cả khi tôi thất bại thảm hại, hy vọng vẫn cho tôi sự chắc chắn rằng “cuộc sống và lịch sử của tôi nói chung… được giữ vững bởi sức mạnh bất diệt của Tình yêu, và điều này mang lại cho chúng ý nghĩa và tầm quan trọng, chỉ có loại hy vọng này mới có thể mang lại lòng can đảm để hành động và kiên trì”. Bài phân tích sâu sắc về Spe Salvi cho thấy một ranh giới mong manh giữa hai dạng hy vọng: một bên là khát vọng thúc đẩy sinh viên nổi dậy chống lại những “người thầy” của họ tại Đại học Tübingen năm 1968, và bên kia là niềm hy vọng nâng đỡ Thánh Giusephina Bakhita, người nô lệ châu Phi mà Đức Giáo Hoàng Benedict XVI chọn làm hình mẫu tiêu biểu trong thông điệp của mình. Bị bọn buôn nô lệ bắt cóc năm chín tuổi, Bakhita chịu những trận đòn roi tàn bạo đến chảy máu và bị bán đi năm lần trong các khu chợ nô lệ ở Sudan. Trên thân thể bà hằn sâu hơn một trăm vết sẹo - dấu tích của những trận đòn hàng ngày trong nhà chủ. Thế nhưng, sau bao đau khổ, bà tìm thấy một nguồn hy vọng mới nơi một Chủ nhân khác, Đấng mà bà nhận ra là “biết bà… tạo dựng bà” và “thực sự yêu thương bà” (Spe Salvi, 3). Trong bài thơ tuyệt tác Burnt Norton, T.S. Eliot viết: "Hiện tại và quá khứ có lẽ Cùng hiện diện trong tương lai, Và tương lai chứa đựng quá khứ. Nếu mọi thời gian đều tồn tại vĩnh viễn, Thì chẳng thời gian nào có thể cứu chuộc." Lối lập luận của Eliot tinh tế và chặt chẽ như chính những vần thơ của ông, nhưng nó lại trái ngược hoàn toàn với hy vọng Kitô giáo. Hy vọng Kitô giáo đích thực không chỉ hướng về tương lai mà còn cho hiện tại một ý nghĩa mới. Nó được định hình bởi quá khứ, nhưng một quá khứ chưa bao giờ thực sự mất đi, mà luôn hiện diện trong từng khoảnh khắc. Và nếu tương lai đã hiện diện ngay trong hiện tại, nếu quá khứ chưa từng hoàn toàn phai nhòa, thì - như Năm Thánh nhắc nhở chúng ta - mọi thời gian đều có thể được cứu chuộc. Tác giả: Daniel B. Gallagher Nguồn: catholicexchange Chuyển ngữ: Lm. Giuse Phan Hoàng Nguyễn, RCJ - Dòng Tông Đồ Ơn Gọi Ngày 1 tháng 3 Năm 2025 Bài liên quan Những hướng dẫn đơn giản và cơ bản để lắng nghe Chúa trong cuộc sống Lý do nào khiến chúng ta không muốn trở nên thánh? Cho đi mà không tính toán Xưng tội đúng cách: Lời khuyên từ một linh mục Thánh Gabriel được tôn vinh trong phụng vụ tháng Ba như thế nào? Chìa khóa của cầu nguyện là học cách xin điều đúng đắn Chúa sẽ lo liệu: Một chủng sinh suy ngẫm về cơn bạo bệnh của mẹ mình Một trong những lý do chính khiến chúng ta không nghe thấy tiếng Chúa